December 24, 2012

Củ gừng gió trong điều trị bệnh xơ gan


Củ gừng gió trong điều trị benh xo gan

Gừng gió ngày càng được nhiều bệnh nhân xa gần trong cả nước tìm để điều trị benh xo gan cổ trướng. Khi dùng gừng gió phải có sự chỉ dẫn nếu không, rất dễ nhầm với các cây ngải, nghệ đen, nghệ vàng, riềng...

Củ gừng gió trong điều trị xơ gan

Nhận diện cây gừng gió:

Vào năm 2000, khi hay tin ông Nguyễn Văn Q., sinh năm 1938, ở phường Quang Trung, TP Quy Nhơn, tỉnh Bình Định bị bệnh xơ gan cổ trướng đơn thuần (bụng to như bụng phụ nữ mang thai tháng thứ 8, bè, da niêm mạc vàng nhạc xanh) hết bệnh, chúng tôi rất ngạc nhiên vì đây là trường hợp hy hữu. Qua tìm hiểu được biết ông Q. chữa được bệnh xơ gan cổ trướng bằng cây mai gan và theo ông, đã điều trị benh xo gan cổ trướng bằng cây mai gan không được uống rượu bia, phải ăn nhạt ít muối mắm.

Tôi tìm đọc sách, tài liệu về cây, con thuốc Nam dược của giáo sư, tiến sĩ Đỗ Tất Lợi và của nhiều tác giả khác viết về cây thuốc Việt Nam nhưng không sao tìm ra được lai lịch cây mai gan. Qua tìm hiểu từ thực tế được biết đồng bào dân tộc miền núi gọi cây mai gan là cây ngải xanh. Lật lại tài liệu có cây ngải xanh là tên khác của cây gừng gió (trang 368, Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam của GS - TS Đỗ Tất Lợi, NXB Y học, 2004)

Gừng  gió còn có tên khác: riềng gió, ngải xanh, ngải mặt trời, riềng dại; khuhet phtu, brateal, vong atic (Campuchia); ginembrefou (Pháp), phong khương, khinh keng (Tày), gừng dại, gừng giềng. Tên khoa học: Zingber zerumber (L) sm, thuộc họ gừng: Zingiberaceae. Cây cao từ 1 - 1,3m, thân rễ dạng củ phân nhiều nhánh, lúc củ non có màu vàng thơm.

Củ càng già càng to, chắc; trong ruột có màu vàng, có mùi thơm ngọt, dễ chịu. Lá mọc xếp lớp, không cuống, thuôn dài đầu nhọn, phía trên màu xanh lục, hơi nhạt ở phía dưới; bẹ nhẵn, trừ phía trên có lông...; cụm hoa dài 30 - 60 cm, phủ đầy vẩy, mép có mang lông hoa hình trứng mọc thẳng từ thân rễ thường có màu lục, khi già màu hồng đỏ đài và tràng màu trắng cánh môi màu vàng nhạt. Quả nang hình bầu dục, hạt màu đen, có áo hạt mềm màu trắng, mùa có hoa vào tháng  5 - 6. Cây gừng gió mọc hoang ở khắp nơi, chịu đất ẩm ướt - mát, bìa rừng, ven suối, đất núi rậm. Có thể trồng trong chậu kiểng để nơi râm mát ở gia đình, thuộc loại cây cảnh đẹp.


Một vài công dụng khác của gừng gió:

Phân tích về dược lý trong củ gừng gió có nhiều tinh dầu, dầu béo và nhựa. Trong tinh dầu có 13% các monoterpen và nhiều sesquiterpen, trong đó humulen chiếm 27%; monocyclic, sesquiterpen seton, zerumbom 37,5%.

Gừng gió có vị đắng, cay, tính ấm có tác dụng táng phong hàn, giảm đau, trị ứ huyết, chứng trúng gió, chóng mặt nôn nao ngất xỉu, quan trọng hơn là tác dụng tẩy độc, bồi dưỡng sau sinh, kích thích tiêu hóa, ăn ngon, ngủ tốt, da dẻ hồng hào... Thân rễ gừng gió 20 - 30g, rửa sạch giã nhỏ thêm ít rượu chắt nước uống chữa trúng gió bị ngất, lấy bã chưng nóng xoa xát khắp người trị chứng tê chân lạnh.

Thường dùng thân rễ thái mỏng ngâm trong rượu với liều 40 - 50g tươi hay sấy khô trong một chai nước 650 ml, ngâm trong thời gian 15 - 20 ngày, gạn xác lấy nước uống mỗi ngày 3 ly nhỏ như khai vị rất tốt với những bệnh nhân suy dinh dưỡng (trừ xơ gan cổ trướng). Thân rễ gừng gió giã nát cùng với lá chàm mèo, đắp làm thuốc cầm máu vết thương. Zerambom, thành phần chính của tinh dầu gừng gió ức chế sự phát triển của Micrococus Pyogenes Var, Aureus và Mycobacterium, Tusberculosis.

Củ cây gừng gió có tác dụng trong điều trị xơ gan cổ trướng đơn thuần, nghĩa là không có viêm gan siêu vi B, C dương tính, và loại trừ ung thư gan. Mặt khác trong bệnh lý về nội khoa, ngoài việc chẩn đoán dựa vào lâm sàng, sinh học, siêu âm, nó còn dựa trên cơ địa của mỗi người, có người chịu, có người không. Do đó vẫn phải thận trọng khi tìm chọn cây thuốc, tránh việc dùng thang thuốc thiếu khoa học.

Xem thêm:

December 20, 2012

Món ăn điều trị bệnh xơ gan



Người mắc benh xo gan nên chú ý trong khi ăn uống

Theo y học cổ truyền, benh xo gan thuộc bệnh danh “cổ trướng, chứng  tích”. Chế độ ăn uống sẽ có tác dụng hỗ trợ trong điều trị bệnh. Dưới đây là cách chế biến một số món ăn dùng cho người xơ gan theo lương y Quốc Trung.
1. Cá trạch nấu đậu phụ
+ Nguyên liệu: Cá trạch 400g, đậu phụ 200g, cùng các gia vị.
+ Cách chế biến: Cá trạch bỏ mang và ruột, rửa sạch, cho vào nồi cùng 200g đậu phụ, cho lượng nước vừa đủ, nấu chín, nêm nếm gia vị vừa dùng. Món này có tác dụng bổ trung ích khí, tốt cho việc thanh trừ thấp nhiệt, thích hợp với người xơ gan có các triệu chứng: vàng da, vàng mắt, trướng bụng.

2. Cá chép nấu vỏ hồ lô

Cá chép nấu vỏ hồ lô

+ Nguyên liệu: Một con cá chép, 1 vỏ hồ lô (quả bầu eo) lâu năm, đậu đỏ hạt nhỏ 50g.
+ Cách chế biến: Cá chép bỏ mang đánh vảy, bỏ ruột, cho vào nồi hầm cùng với vỏ hồ lô và đậu đỏ, nêm nếm gia vị vừa dùng. Ăn ngày 1 lần, có tác dụng hỗ trợ điều trị xơ gan ở người có các triệu chứng: bụng to, sắc mặt sạm đen, tay chân lạnh, hoặc phù chi dưới, đi tiêu lỏng.

3. Trứng gà nấu kỷ tử
Trứng gà nấu kỷ tử

+ Nguyên liệu: Kỷ tử 30g, mạch đông 10g, cùng 4 cái trứng gà, và 50g thịt chân giò heo, tinh bột, đường và các gia vị.
+ Cách chế biến: Mạch đông rửa sạch cho vào nước đun sôi rồi vớt ra. Trứng gà đánh đều hấp cách thủy, để nguội cắt thành miếng. Thịt chân giò rửa sạch thái nhỏ cho vào trộn đều với tinh bột, đường rồi cho vào chảo dầu nóng, đảo cho chín, bỏ kỷ tử, trứng đã thái, mạch đông vào xào cùng, nêm gia vị vừa dùng.

Cafe giúp giảm bệnh xơ gan


Cafe giúp giảm nguy cơ mắc bệnh xơ gan

Bệnh nhân viêm gan C uống đều đặn hơn 2 tách cà phê mỗi ngày sẽ giảm được bệnh xơ gan, tờ The Times of India đưa tin. Các chuyên gia thuộc Học viện Quốc gia bệnh tiểu đường, tiêu hóa và thận (Mỹ) mới tiến hành một nghiên cứu và nhận thấy đưa vào cơ thể 308 mg caffeine mỗi ngày có tác dụng chữa bệnh đối với người mắc bệnh viêm gan C.
Cafe giúp giảm nguy cơ mắc bệnh xơ gan

Nhóm nghiên cứu đã dựa trên dữ liệu về tiêu thụ caffeine trong hơn 2 năm của các bệnh nhân ở khoa gan Viện Y tế Quốc gia Mỹ. Những người tham gia vào cuộc nghiên cứu cho thấy uống hơn 2 tách cà phê, tương đương 308 mg caffeine đưa vào cơ thể, và được duy trì hằng ngày có tác dụng rõ rệt trong việc giảm bệnh xơ gan.

Mai ba ba trị bệnh xơ gan


Mai ba ba giúp trị benh xo gan

Mai ba ba chữa bệnh xơ gan

Cách lấy mai ba ba:
Ba ba bắt về, cắt cổ lấy tiết hứng ngay vào ít rượu, rồi cho cả con vào nồi nước sôi, đun trong 1-2 giờ, vớt ra, gỡ lấy mai, để nguyên hoặc ngâm nước phèn một đêm (20g phèn cho 1kg mai), rồi cạo sạch thịt và màng, phơi khô. Nếu lấy mai ở con vật còn sống thì tốt hơn (không dùng mai đã cắt nhỏ nấu ăn).
Mai ba ba hình bầu dục hay hình trứng rộng, trên dưới phẳng, dài 10-20cm, rộng 8,5 – 16,5cm, nhô dần lên ở phía giữa, mặt lưng màu xám đen hoặc lục đen loang lổ, hơi sáng bóng, có nhiều nếp vân nhăn. Mặt bụng màu trắng đục là một khung gồm xương sống chạy dọc ở giữa, có 8 đốt, mỗi đốt mang hai xương sườn thẳng hàng, uốn vào phía trong. Chất cứng chắc. Thứ mai to bản, dày chắc, không sót thịt và màng là loại tốt.
Thành phần hóa học của mai gồm keratin, chất đạm, vitamin D.

Chế biến mai ba ba:
Theo hai cách sau:
- Ngâm mai vào nước gừng rồi phơi khô. Sao với cát nóng hoặc nướng chín đến khi mặt ngoài hơi vàng, lấy ra tẩm sơ qua với giấm (tỷ lệ 1,5lít giấm cho 5kg mai), rửa sạch, phơi khô. Bảo quản nơi khô ráo, tránh sâu mọt.
- Nấu cao: Ngâm mai vào nước tro bếp (tro rơm rạ hay củi) trong một đêm, lấy ra rửa sạch, tẩm rượu (có thể ngâm rượu gừng với tỷ lệ 50g gừng cho 1 lít rượu 40o) rồi cắt nhỏ, nấu với nước luôn sâm sấp và sôi liên tục trong một ngày, một đêm. Chắt lấy nước thứ nhất. Thêm nước, tiếp tục nấu để được nước thứ hai, thứ ba. Gộp các nước chắt lại, lọc kỹ, cô thành cao đặc ở nhiệt độ 70oC trở lên được miết giáp cao. Cao tốt phải có hai lớp khi cắt ngang, lớp trên có màu nâu hơi vàng bóng, lớp dưới có màu nâu đen, mùi thơm, không tanh.
Công dụng và cách dùng
Mai ba ba có vị mặn, tính hàn, không độc vào 3 kinh can, phế và tỳ, có tác dụng bổ âm, ích khí, thanh nhiệt, tán kết, nhuận táo, giảm đau, điều kinh. Dược liệu được dùng chữa hao gầy, đau lưng, nhức xương, lao lực quá độ, khí huyết ngưng trệ, mồ hôi trộm, tiểu tiện ra sỏi, kinh nguyệt bế, sốt rét, gan bị xơ hóa. Mỗi ngày uống 10-20g bột hoặc 6-10g cao, chia làm hai lần. Dùng riêng hoặc phối hợp với các vị thuốc khác.
Tuệ Tĩnh (Nam dược thần hiệu) đã dùng mai ba ba bôi sữa, nướng vàng, tán bột, uống mỗi lần 4g với rượu hâm nóng chữa đau lưng. Hải Thượng Lãn Ông (Dược phẩm vậng yếu) lại dùng mai ba ba trong những trường hợp sốt rét cơn, thịt thừa trong họng, ho lao, mụn nhọt, rong huyết, bế kinh.

Bài thuốc có mai ba ba:
- Chữa trẻ nhỏ bị suyễn, thở gấp: Mai ba ba đốt tồn tính, tán nhỏ, rây bột mịn, lá nhót tươi 50g, rửa sạch, ép lấy nước đặc. Mỗi lần uống 4g bột mai với nước ép lá nhót.
- Chữa sốt rét, thũng báng: Mai ba ba, nga truật, tam lăng, trần bì, thanh bì, binh lang, thảo quả, sa nhân, ô mai, bán hạ chế, mỗi thứ 20g; thường sơn 40g. Tất cả thái nhỏ, ngâm với một lít rượu và một lít giấm trong một ngày đêm. Đun cho cạn hết dung dịch, phơi khô, sao giòn tán nhỏ, rây bột mịn, luyện với hồ làm viên bằng hạt đỗ xanh. Mỗi ngày, người lớn uống 30-40 viên làm một lần với nước ấm trước khi lên cơn khoảng 2 giờ. Trẻ em 5-10 tuổi, 10-20 viên; 11 tuổi trở lên, 20-30 viên (kinh nghiệm của ông Tử Khắc Hàm – Nghệ An).
Hoặc mai ba ba 30g, tẩm giấm, nướng vàng làm 3 lần; cành và lá cây cam thìa 100g, cắt nhỏ, phơi khô, tẩm rượu, sao vàng; rễ hà thủ ô trắng đã chế 50g; lá thường sơn 50g, tước bỏ cuống và sống lá, ngâm nước vo gạo 2 ngày, 2 đêm, mỗi ngày thay nước gạo một lần, thái nhỏ, tẩm rượu, sao vàng; thảo quả sao cháy vỏ ngoài, lấy hạt 30g; vỏ chanh khô 30g; hạt cau nhà hay cau rừng 30g; hậu phác 20g; cam thảo 20g, sao qua. Tất cả tán nhỏ, rây bột mịn. Người lớn uống mỗi ngày hai lần vào trước bữa ăn một giờ, mỗi lần 4g với nước sôi để nguội. Trẻ em tùy tuổi dùng liều thích hợp. Uống liên tục trong khoảng một tháng.
- Chữa kinh nguyệt tắc do cơ thể suy nhược: Mai ba ba 30g, tán nhỏ, rây bột mịn, cho vào bụng một con chim bồ câu (đã làm thịt) cùng với ít rượu và gia vị. Hấp cách thủy cho chín nhừ. Ăn hết làm một lần trong ngày.
- Chữa mụn rò, chảy nước và mủ, lòi dom: Mai ba ba, mai rùa, phèn chua (lượng các vị bằng nhau) đốt tồn tính, tán nhỏ, rắc vào chỗ đau, ngày vài lần.
- Chữa benh xo gan: Mai ba ba 30g, vảy tê tê 5g, cắt nhỏ, sắc với 400ml nước còn 100ml, uống làm hai lần trong ngày.


Phương pháp đông y chữa bệnh xơ gan


benh xo gan là gì?
Benh xo gan là một bệnh mạn tính toàn thân tổn thương chủ yếu là cấu trúc của gan bị biến dạng do sự tăng sinh và xơ hóa của tổ chức gan, hình thành các cục tại mô gan. Biểu hiện lâm sàng chủ yếu là chức năng gan giảm và một loạt triệu chứng do tăng áp lực tĩnh mạch cửa. Căn cứ vào các triệu chứng lâm sàng khác nhau mà y học cổ truyền thường mô tả trong các chứng: ‘Tích Tụ’, ‘Cổ Trướng’, ‘Phúc Trướng’ [Linh Khu], ‘Thủy cổ” (Cảnh Nhạc Toàn Thư)…
Phương pháp đông ý chữa bệnh xơ gan
Hình ảnh gan bị xơ
Nguyên Nhân dẫn đến benh xo gan:
Những nguyên nhân thường gặp theo y học hiện đại là:
1. Viêm gan do vi rút.
2. Dinh dưỡng kém và nghiện rượu.
3. Nhiễm độc hóa chất như Thạch tín… Hoặc do tắc mật kéo dài gây xơ gan, thường rất ít gặp.
Theo y học cổ truyền thì sự hình thành của benh xo gan có liên quan đến 3 tạng Can, Tỳ và Thận. Nguyên nhân chính là do khí trệ, huyết ứ, thủy thấp ứ đọng trong cơ thể dẫn đến làm hư tổn thận âm, thận dương. Có thể giải thích cơ chế các triệu chứng bệnh lý như sau: Chứng hoàng đản và tích tụ trực tiếp ảnh huởng đến tạng Can. Can tàng huyết, thích sơ tiết, bệnh lâu ngày, Can không được thông điều sinh ra can khí uất sẽ ảnh hưởng đến chức năng của tỳ vị (can vị bất hòa, tỳ vị hư nhược). Trên lâm sàng thường có các triệu chứng như ngực sườn đầy tức, ợ hơi, nôn, buồn nôn, chán ăn, tiêu lỏng… bệnh lâu ngày khí trệ sinh ra huyết ứ, biểu hiện các triệu chứng mạn sườn đau tức tăng cố định, môi lưỡi tím thâm, các hội chứng ứ huyết, xuất huyết. Mặt khác, nếu do ăn uống thiếu thốn thất thường, nghiện rượu quá độ cũng làm tổn thương tỳ vị, chức năng tỳ vận hoá kém nội sinh thấp nhiệt, tân dịch bị tổn thương. Nếu cảm nhiễm trùng độc hoặc hóa chất độc hại cũngđều do tác hại can tỳ mà sinh bệnh. Bệnh lâu ngày sẽ tổn hại thận, thận dương hư tiểu khó khăn, phù
và cổ trướng nặng hơn, thận âm hư dẫn tới can thận âm hư, can hỏa vượng, can huyết hao tổn, can phong động sinh co giật hôn mê… Tóm lại bệnh xơ gan giai đoạn đầu chủ yếu là tổn thương can tỳ, khí ứ, huyết trệ, vào glai đoạn cuối tạng thậân cũng bị tổân thương sinh ra tỳ thận dương hư và can thâïn âm hư, bệnh trầm trọng và khó trị.
Triệu chứng benh xo gan:
- Giai đoạn bắt dầu: Chức năng gan còn bù trừ, triệu chứng lâm sàng thường không rõ hoặc rất nhẹ, chủ yếu triệu chứng rối loạn tiêu hóa như ăn không biết ngon, tiêu lỏng, người bệnh cảm thấy mệt mỏi, đau nhẹ, hơi tức vùng bụïng trên bên phải hoặc đầy bụng, nôn hoặc buồn nôn. Khám gan hơi to (có thể không to), có bệnh nhân lách to. Chức năng gan bình thường hoặc hơi suy giảm, có thể khám kỹ phát hiện điểm ứ huyết, mạch sao mà xác định bệnh.
- Giai đoạn toàn phát: Chức năng gan suy giảm rõ. Lâm sàng biểu hiện triệu chứng rối loạn tiêu hóa tăng, mạn sườn bên phải đau rõ, sụt cân, da xạm, có bệnh nhân vàng da, vàng mắt, điểm ứ huyết, mạch sao ở mặt, ngực, tay, vai, cổ.. . hoặc có hiện tượng giãn mao mạch, bàn tay, đầu ngón tay đỏ mập lên, chân răng, mũi, trĩ, xuất huyết, tiêu có máu, phụ nữ kinh nguyệt nhiều kéo dài, hoặc có triệu chứng hoa mắt, chóng mặt, tim hồi hộp, ít ngủ, chân tay tê dại, ngứa, tiểu ít, hoặc tiểu khó, cổ chân phù, bụng có nước nhẹ. Khám gan thấy có thể eo nhỏ hoặc to dưới bờ sườn, bờ sắc cứng.
- Giai doạn cuối: Triệu chứng tăng áp lực tĩnh mạch rõ: cổ trướng, da bụng bóng, tuần hoàn bàng hệ, tiểu rất ít hoặc vô niệu, khó thở, người gầy, sắc mặt xạm tối, da mặt vàng đậm, bệnh nặng có xuất huyết tiêu hóa, tinh thần lờ đờ, buồn ngủ hoặc hưng phấn, hốt hoảng, hôn mê gan…
Phương pháp điều trị benh xo gan:
Theo sự phân tích về cơ chế sinh bệnh và theo y học cổ truyền thì trong bệnh xơ gan, bệnh lý chủ yếu là can huyết ứ trệ, cho nên phép chữa chính là hoạt huyết hóa ứ và trong quá trình điều trị cần phân biệt rõ các mặt tiêu bản, hư thực, hoãn cấp để chọn phép chữa thích hợp, chủ yếu theo 3 giai đoạn bệnh mà biện chứng luận trị.
1- Giai đoạn đầu:
Triệu chứng: Bệnh mới bị, bệnh nhân còn khỏe.
Điều trị: Hoạt huyết, hóa ứ kiêm điều can lý tỳ.
Bài thuốc: Dùng bài Huyết phủ trục ứ thang gia giảm:
Huyết phủ trục ứQui xuyên12Xích thược15Ngưu tất12
Đào nhân16Xuyên khung6Cát cánh6Cam thảo4
Hồng hoa12Sinh địa12Ngũ linh chi6-8Chỉ sác8
Đan sâm12Miết giáp12

Gia giảm: Mệt mỏi nhiều, thêm Hoàng kỳ, Đảng sâm, Bạch truật, Bạch linh để ích khí kiện tỳ.
Ăn ít, đầy bụng khó tiêu, bỏ Miết giáp thêm Mạch nha, Sơn tra, Thần khúc để tiêu thực
Miệng khô, da nóng, vàng da, rêu lưỡi vàng dày, mạch Sác… có triệu chứng thấp nhiệt, bỏ Miết giáp, Đào nhân, Hồng hoa thêm Nhân trần, Chi tử, Liên kiều, Xa tiền, Trạch tả… Có triệu chứng hư nhiệt như sốt lòng bàn chân, bàn tay nóng, lưỡi thon đỏ, mạch Tế Sác, bỏ Đào nhân, Hồng hoa thêm Tri mẫu, Địa cốt bì, Hạn liên thảo, Mạch môn, Ngũ vị tử… để thanh hư nhiệt.
Ngủ kém thêm Táo nhân sao, Bá tử Nhân… để dưỡng tâm, an thần.
2. Giai đoạn toàn phát:
Triệu chứng: Chức năng gan suy giảm, cơ thể bệnh nhân yếu, đau hoặc không nhưng có phù, bụng đầy, có nước, vùng gan đầy tức… bệnh biểu hiện hư thực lẫn lộn.
Điều trị: Sơ can, hoạt huyết, kiện tỳ, lợi thủy.
Bài thuốc: Dùng bài Tiêu dao tán thêm Ngũ bì ẩm gia giảm:
Sài hồ12Bạch truật12Đan sâm12
Đại phúc bì8Qui đầu12Bạch linh12Chỉ thực8
Tang bì12Xích thược10Đẳng sâm12Trần bì8
Sinh khương3

Gia giảm: Mạn sườn đau nhiều, gan lách to, có nốt ứ huyết thêm Đương quy vĩ, Xuyên sơn giáp, chế Hương phụ, Uất kim để tăng thêm tác dụng hành khí, hoạt huyết.
Có triệu chứng huyết hư thêm Bạch thược, Thục địa, Hà thủ ô, Kỷ tử, Hoa hòe để bổ huyết, chỉ huyết.
Can thận âm hư, sốt nhẹ, lòng bàn chân tay nóng, chất lưỡi thon đỏ, mạch Huyền Tế cần thêm thuốc tư dưỡng can thận như Sa sâm, Mạch môn Ngũ vị tử, Sinh địa, Nữ trinh tử, Câu kỷ tử, Bạch thược, Hạn liên thảo…
3. Giai đoạn cuối:
Triệu chứng: Đến giai đoạn cuối thì cơ thể người bệnh đã quá suy yếu do chính khí hư nhưng cổ trướng lại tăng (tà khí thực) nên phép chữa phải dùng vừa công vừa bổ, cần chú ý nắm nguyên tắc ‘cấp trị tiêu, hoãn trị bản’, phép trị bản chủ yếu bổ khí huyết, sơ Can, kiện tỳ. Trị tiêu chủ yếu là công trục cổ trướng…
Phép trị: Bổ khí huyết.
Bài thuốc: Dùng bài Bát trân thang, Thập toàn đại bổ gia giảm tùy tình hình bệnh.
bat trân thangĐẳng sâm16Bạch truật12Bạch linh12
Cam thảo6Qui đầu12Thục địa20Bạch thược12
Xuyên khung8Hoàng kỳ12Đan sâm12Hoài sơn12
Sa tiền12Ý dĩ12Trích thảo4Kỉ tử12

Gia giảm: Tỳ thận dương hư, ăn kém, tiêu lỏng, mặt xạm, lưng đau, bàn chân phù, chân tay lạnh, lưỡi bệu, rêu trắng, mạch Trầm, Trì, Huyền, cần ôn bổ tỳ thận, dùng bài thuốc gồm các vị chế Phụ tử, Nhục quế, Xuyên ngưu tất, Phòng kỷ, Can khương, Bạch linh, Bạch truật, Trạch tả…
Trường hợp can thận âm hư, hoa mắt, chóng mặt, ù tai, mắt khô, ít ngủ, lưỡi đỏ, ít rêu, mạch Huyền Tế Sác… cần tư dưỡng can thận, dùng bài thuốc gồm các vị: Hà thủ ô, Kỷ tử, Sinh địa, Mạch môn, Sa sâm, Thạch hộc, Đan sâm, Kê huyết đằng, Quy bản, Miết giáp… Trường hợp xuất huyết nhiều (nôn ra máu hoặc tiêu ra máu, hôn mê gan, cần xử trí cấp cứu kết hợp Đông Tây Y
Chú ý đối với những bệnh nhân có xuất huyết, có bệnh tim, người bệnh quá suy kiệt, không nên dùng phép trục thủy. Lúc dùng phép trục thủy nên kết hợp Tây y truyền dịch để tránh được trạng thái mất nước tổn hại chân âm. Có thể dùng thang Lý Ngư Xích Tiểâu Đậu Thang: Cá chép 1 con 500g, đánh vảy sạch, bỏ lòng ruột. Xích tiểu đậu 60g, không cho muối, nấu chín nhừ lọc qua vải lấy nước uống, ngày uống 1 thang, uống liền trong 12-16 tuần có kết qủa tốt.

December 18, 2012

Biện pháp phòng ngừa bệnh xơ gan


benh xo gan phòng ngừa như thế nào?

Benh xo gan là hậu quả của tổn thương gan do rất nhiều nguyên nhân khác nhau, việc phát hiện sớm đồng thời điều trị hợp lý, hiệu quả tất cả các biến chứng của bệnh là nền tảng trong điều trị.

Hình ảnh bệnh xơ gan

Ngày nay, có nhiều thuốc và lựa chọn phương pháp điều trị khác nhau đã phần nào làm giảm thiểu được các biến chứng, giúp cải thiện tình trạng bệnh và kéo dài cuộc sống cho bệnh nhân; ghép gan dù có rất nhiều khó khăn về kỹ thuật, chi phí và nguồn tạng nhưng cũng là một hướng mang lại nhiều triển vọng.

Tuy vậy, điều cần nhấn mạnh trước hết vẫn là việc dự phòng. Các biện pháp phòng ngừa benh xo gan gồm:

-          Thực hiện tốt biện pháp vệ sinh phòng chống lây nhiễm virut viêm gan B, C, D

-          Tiêm phòng virut viêm gan B, C, D

-          Không uống rượu

-          Ăn uống đủ chất

-          Phòng chống nhiễm sán lá gan

-          Điều trị tốt các bệnh đường mật

-          Thận trọng khi dùng các thuốc gây hại cho gan

-          Dự phòng và điều trị tốt các bệnh viêm gan cấp và mạn tính

-          Duy trì đều đặn kiểm tra gan định kỳ 6-12 tháng/lần

Nguyên nhân gây bệnh xơ gan


Các nguyên nhân gây benh xo gan có thể gồm


Hình ảnh về người mắc bệnh xơ gan

Xơ gan do rượu: Rượu là một loại có độ cồn rất cao và còn có nhiều chất độc khác, trong đó nếu rượu không tinh khiết thì khi uống càng nhiều và thời gian càng kéo dài thì rất dễ dẫn đến benh xo gan. Rượu là một nguyên nhân hay gặp nhất trong các nguyên nhân đưa đến xơ gan.

Sự phát triển của xơ gan ở những người uống rượu tuỳ thuộc vào lượng và tính đều đặn của lượng rượu uốn. Những người  uống tối thiểu 8-16 ounces rượu nồng độ cao thường xuyên mỗi ngày trong 15 năm hay lâu hơn sẽ phát triển bệnh xơ gan với tần suất 30%

Xơ gan do ứ mật: Mật bị ứ đọng do viêm, tắc đường mật (cả đường mật trong gan và ngoài gan). Mật sẽ tác động làm ảnh hưởng, tổn thương tế bào gan dần dần dẫn đến benh xo gan.

Xơ gan do viêm gan virus: đặc biệt là viêm gan virus B, C, D. Trong hơn 90% bị bệnh viêm gan do virus sẽ tự khỏi hoàn toàn không cần một loại thuốc nào (kể cả Tây y lẫn Đông y), chỉ có 10% bệnh nhân viêm gan virus trở thành viêm gan mãn tính hay người lành mang virus viêm gan. Trong số viêm gan mãn tính có thể có một tỷ lệ trở thành xơ gan, một số khác đưa đến ung thư gan.

Người ta không ghi nhận viêm gan siêu vi A gây bệnh gan mãn tính hay xơ gan.

Xơ gan do ký sinh trùng: Đối với ký sinh trùng có 3 loại hay gặp làm tổn thương tế bào gan và đưa đến xơ gan, đó là: Lỵ amip, ký sinh trùng sốt rét và sán lá gan.

Những người có phản ứng bất thường với vài loại thuốc, tiếp xúc lâu ngày với chất độc cũng có nguy cơ bị xơ gan.

Có thể gặp benh xo gan do suy tim, xơ gan do một số bệnh di truyền với tỷ lệ thấp.

Một số bất thường di truyền do sự tích tụ chất độc trong gan dẫn đến phá huỷ mô và gây xơ gan. Ví dụ sự tích tụ bất thường chất sắt (ứ đọng chất sắt) hay đồng (bệnh Wilson).Trong bệnh ứ đọng chất sắt, bệnh nhân có khuynh hướng hấp thu quá độ sắt từ thức ăn. Theo thời gian, sự tích tụ sắt xảy ra trong các cơ quan khác nhau gây xơ gan, viêm khớp, phá huỷ cơ tim dẫn đến suy tim, và rối loạn chức năng tinh hoàn.

Trẻ sinh ra không có ống dẫn mật (teo ống dẫn mật), dẫn đến xơ gan. Những trẻ khác sinh ra không có một vài men cần thiết dẫn đến tích tụ đường cũng có thể gây xơ gan. Một số ít ca, sự thiếu của vài men đặc hiệu có thể dẫn đến xơ gan, tổn  thương phổi như thiếu hụt men alpha 1 antitrypsin.

December 17, 2012

Viêm gan B - Căn bệnh truyền nhiễm nguy hiểm


Viêm gan B - Một căn bệnh truyền nhiễm nguy hiểm không trừ một ai

Viêm gan B là một nhiễm trùng gây ra bởi virus viêm gan B (HBV - Hepatitis B virus). Nó ảnh hưởng trực tiếp tới gan và gây thiệt hại nặng nề cho các tế bào gan. Nó cũng là một căn bệnh truyền nhiễm phổ biến gây tử vong cao trên toàn thế giới.
Viêm gan B - Một căn bệnh truyền nhiễm nguy hiểm

Viêm gan B ở trẻ em có biểu hiện lâm sàng rất đa dạng thay đổi tùy theo thể bệnh, thời kỳ bệnh và lứa tuổi.
Một số người bị nhiễm viêm gan B có thể vẫn khá khỏe mạnh sau vài tuần khi biết mình đã bị lây nhiễm, trong khi nhiều người khác (đặc biệt là trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ) bệnh thường không gây hậu quả tức thời. Ở những nhân này, bệnh sẽ tiếp tục phát triển trong cơ thể và khoảng vài chục năm sau đó, các vấn đề về gan sẽ nghiêm trọng hơn nhiều nếu không được điều trị.
Bệnh truyền nhiễm viêm gan B có thể lây lan qua đường:
Viêm gan B là một bệnh lây nhiễm rất cao, được lan truyền qua tiếp xúc với máu hoặc các sản phẩm của máu, hoặc qua tiếp xúc thân thể thân mật như quan hệ tình dục (dị tính và đồng tính). Viêm gan B cũng là một trong các bệnh nhiễm trùng qua đường tình dục (STDs). Những con đường mà nó lan truyền bao gồm:
1. Quan hệ không an toàn.
2. Chia sẻ, dùng chung các trang thiết bị tiêm chích (kim tiêm, ống chích và bất cứ thiết bị nào được sử dụng để tiêm chích).
3. Kim tiêm chưa được khử trùng hoặc khử trùng không sạch vẫn còn dính máu của người mắc bệnh viêm gan B. Những kim tiêm này bạn có thể tình cờ thấy ở mặt đất hoặc ở một phòng khám nào đó không đảm bảo....
4. Khi đục lỗ khuyên, châm cứu hoặc xăm mình với những thiết bị không hoặc chưa được tiệt trùng cẩn thận.
5. Lây lan qua tiếp xúc với các vết loét chảy máu.
6. Mẹ bị viêm gan B có đến 40% khả năng bệnh sẽ lây truyền cho con. Vì viêm gan B lây truyền qua đường máu, qua nhau thai hoặc từ dịch tiết âm đạo, vết loét bị nhiễm trùng vào lúc sinh.
7. Virut viêm gan B không lan truyền qua thức ăn, nước hoặc qua tiếp xúc xã giao thông thường.

December 13, 2012

Những bệnh truyền nhiễm lây qua đường tình dục


Những bệnh truyền nhiễm lây qua đường tình dục

Trẻ vị thành niên, nhất là các chàng trai ở độ tuổi dậy thì, cần được cho biết về các căn bệnh thuộc về đường sinh dục. Nói kịp thời không có nghĩa là nói ngay ở tuổi mười bốn. Có không ít ông bố, bà mẹ cảm thấy sốc nặng khi biết con trai mình hóa ra đã nếm trải những cảm giác tình dục triệt để. Sự giao tiếp tình dục đầu tiên trong đời người đàn ông thường xảy ra sớm nhất là vào tuổi mười lăm. Tuy vậy, sau “sự kiện” đầu tiên đó, những lần tiếp xúc tình dục tiếp theo chỉ xảy ra sau đó hai ba năm, đôi khi muộn hơn nữa.

Tất nhiên, không thể nào có thứ quan hệ tình dục chín chắn ở tuổi mười lăm. Sự giao tiếp tình dục đầu tiên của các chàng trai tuổi 15 thường chỉ xảy ra một cách ngẫu nhiên. Bạn tình của cậu bao giờ cũng là người nhiều tuổi hơn cậu, giàu kinh nghiệm tình dục hơn cậu. Có thể do tò mò, có thể thuần túy vì mục đích giải trí, một người đàn bà nào đó có thể quyết định kéo chàng trai ngây thơ vào cái thế giới bí hiểm mà cậu đang tò mò và sợ hãi. Chuyện đó cũng có thể xảy ra với một cô gái dễ tính, xem chuyện tình dục chỉ như một trò tiêu khiển, có thể tiến hành với bất cứ ai khi thuận tiện. Trong trường hợp thứ nhất, chuyện không có gì đáng buồn cho lắm. Còn nếu trường hợp thứ hai xảy ra thì rất đáng ngại. Bởi vì cô gái đó không đủ khả năng ý thức được rằng mình đang có những bệnh đường sinh dục.

Chúng tôi không bàn bạc một cách chi tiết các căn bệnh đường sinh dục. Bởi vì đó không phải là mục đích của cuốn sách này. Ở đây chúng tôi chỉ đưa ra một lượng thông tin tối thiếu mà tuổi trẻ bắt buộc phải có.

Các thứ bệnh sinh dục đã bám vào đời sống loài người trong hàng chục thiên niên kỷ. Thứ bệnh mà ngày nay chúng ta gọi là bệnh lậu đã được loài người mô tả, ghi chép ngay từ những năm 3000 trước công nguyên. Đáng tiếc là cho đến nay, loài người vẫn chưa tiêu diệt nổi chúng. Thậm chí gần đây lại xuất hiện thêm một thứ bệnh truyền nhiễm đường sinh dục mới là bệnh AIDS.

Bệnh giang mai
Đây là một trong những bệnh sinh dục khá nghiêm trọng. Dấu hiệu đặc trưng của nó là những mụn không gây đau đớn, xuất hiện ở dương vật và âm đạo. Nó cũng có thể xuất hiện ở các vị trí khác, thậm chí ở miệng. Khi mụn nổi lên là lúc bệnh nhân đã bị nhiễm giang mai 2-4 tuần rồi. Tất nhiên, khi phát hiện ra bệnh thì phải tới ngay bệnh viện, đặc biệt là khi nhớ ra rằng mình đã giao tiếp tình dục với một người lạ.

Nếu không chạy chữa kịp thời, 9-10 ngày sau, mụn có thể lặn đi, nhưng thật ra bệnh đã chuyển sang giai đoạn hai. Lúc này, người sẽ ngây ngấy sốt, mệt mỏi, đau xương, đặc biệt là ở sống lưng sẽ có thể xuất hiện những mụn nhỏ hoặc những chấm hồng như kiểu dị ứng. Trong tình huống này, tất nhiên phải cấp tốc tìm tới bác sĩ. Nếu không chạy chữa kịp thời, bệnh giang mai sẽ dẫn tới những biến chứng không lường hết. Nếu bệnh kéo dài 5-10 năm, bệnh nhân có thể bị liệt, rối loạn tâm thần, mù, điếc, thậm chí tử vong.

Bệnh lậu
Vi khuẩn song cầu lậu chủ yếu nằm trong đường niệu đạo, cổ tử cung và hậu môn. Thông thường, đàn ông sau khi nhiễm khuẩn 5 ngày, phụ nữ sau 5-7 ngày bắt đầu thấy nhức khi tiểu tiện và nước giải có mùi thối. Ở phụ nữ, triệu chứng của bệnh này không biểu hiện rõ rệt lắm.
Sau một thời gian nhất định, bệnh nhân có thể cảm thấy như hết bệnh. Thật ra bệnh đã chuyển sang giai đoạn kinh niên. Ở giai đoạn này, bệnh nhân nữ không cảm thấy đau, nhưng sẽ trở thành người truyền bệnh sang người khác khi giao hợp. Bệnh này không đe dọa tới tính mạng và không khó chữa. Nhưng nếu không chữa, bệnh sẽ lan dần sang các bộ phận sinh dục khác và dẫn tới vô sinh.

Bệnh nấm hoa
Bệnh này mới xuất hiện từ 10-14 năm gần đây, do loại nấm bao hoa (chlamydeous) gây ra. Bệnh này không có triệu chứng rõ rệt, không gây đau đớn. Nấm bao hoa gây viêm nhiễm các tổ chức sinh dục và bài tiết. Sự viêm nhiễm chỉ lộ ra sau 2 tuần tính từ khi giao hợp. Đàn ông mắc bệnh thường thấy đau ở bao tinh hoàn, sau đó có thể bị vô sinh. Còn phụ nữ sẽ bị hỏng buồng trứng và cũng vô sinh.

Bệnh trùng roi
Đây cũng là một bệnh sinh dục. Bệnh này vốn không phải phát sinh từ đàn ông, song người đàn ông trở thành trung gian truyền bệnh cho phụ nữ. Năm ngày sau khi giao hợp, phụ nữ sẽ bị viêm âm đạo. Đàn ông nếu mang bệnh này lâu ngày sẽ bị viêm đường niệu đạo. Bệnh trùng roi rất khó chịu song dễ chữa.

Bệnh AIDS
Đây là bệnh đang thu hút sự quan tâm của toàn nhân loại, do virus HIV gây nên. Virus HIV hủy diệt nhóm bạch cầu T4, khiến hệ thống miễn dịch của cơ thể bị phá vỡ. Cơ thể không còn khả năng đề kháng và tự vệ trước mọi thứ bệnh khác. Những kết quả nghiên cứu và thử nghiệm để chữa căn bệnh này thật ra vẫn chưa vượt quá ranh giới của những giả thiết và hy vọng.

Virus HIV cư trú trong các tổ chức lỏng của cơ thể, chủ yếu là trong máu, tinh trùng, dịch âm đạo, có thể sống trong tuyến lệ và nước bọt. Trong không khí khô ráo hoặc khi chạm phải những vi khuẩn khác loại, virus này chết rất nhanh. Vì vậy, trong giao tiếp thông thường, người mang vi rút HIV không lây bệnh sang người khác. Nếu không tính tới việc tiêm chích ma túy trực tiếp vào máu thì con đường độc nhất để nhiễm bệnh là giao tiếp tình dục.

Bệnh AIDS có triệu chứng rất khác nhau: nổi một vài hạch, sốt nhẹ, đau nhức tứ chi, và nói chung giống như bị cảm cúm. Sau một vài tháng, có thể xuất hiện những hội chứng như viêm họng liên tiếp, sốt, tiêu chảy. Nói chung, những người sinh hoạt tình dục phiêu lưu, dễ dãi đều phải đến các bệnh viện chuyên khoa và các trung tâm nghiên cứu dịch tễ để xét nghiệm.
Những người đồng tính luyến ái bị bệnh AIDS đe dọa nhiều nhất do cách sinh hoạt tình dục của họ, và do đối với họ, việc duy trì quan hệ tình dục lâu bền với một người là chuyện quá khó khăn. Tiếp đến là những người đàn bà “làng chơi”, bởi vì tinh trùng của những người mang virus HIV khi vào âm đạo thì thâm nhập luôn vào cơ thể phụ nữ.

Các bạn trẻ cần phải ý thức được một điều: Chẳng có một thứ bệnh tình dục nào là chính đáng. Các căn bệnh này cũng không phải là sự trả giá cho thứ sinh hoạt tình dục phóng đãng. Trong số những người mắc bệnh tình dục nói chung, có rất nhiều người đứng đắn và nghiêm túc trong quan hệ tình dục. Họ mắc bệnh chỉ vì một lần nào đó ngẫu nhiên chung chạ “chút đỉnh” với một người đàn bà hoặc một người đàn ông không quen biết. Cũng có những bệnh nhân là một người trẻ tuổi, nông nổi, không đủ sức cưỡng lại một cơ hội thuận tiện. Còn đại đa số là người quá thiếu lý trí trong đời sống tình dục. Điều đáng sợ nhất là khi với tâm trạng tuyệt vọng, cay cú, người nhiều mang bệnh cố tình tìm mọi cách gieo bệnh cho người khác theo kiểu “trả thù đời”.

Trước những mối đe dọa trong đời sống tình dục của con người, chúng tôi khuyên rằng, nếu giao tiếp tình dục với một người mà mình chưa biết rõ, hãy sử dụng bao cao su. Chiếc bao giản dị này không chỉ ngăn chặn sự truyền nhiễm AIDS mà còn ngăn chặn được tất cả các thứ bệnh đường sinh dục khác.

Xem thêm: tác hại của rượu  | đầy bụng khó tiêu | ung thu gan la gi | tế bào gốc là gì | ghép tế bào gốc | benh xo gan

Tế bào gốc giúp tăng sinh collagen cho da


Tế bào gốc là những tế bào chưa biệt hóa, nó có đặc tính là phát triển thành các dạng tế bào khác nhau của cơ thể. Như tế bào ở tủy xương có thể biến đổi thành tế bào chuyên biệt ở nhiều mô khác nhau như máu, não, cơ, thận, lách và gan…
Thông thường phụ nữ sau độ tuổi 25, tiến gần đến mốc 30 làn da thường bắt đầu “xuống cấp” nhanh. Các dấu hiệu đầu tiên của giai đoạn lão hóa sẽ xuất hiện ở thời điểm này như:
Tế bào gốc giúp tăng sinh collagen cho da

- Da khô và thô hơn: do tuyến mồ hôi và tuyến bã nhờn hoạt động suy giảm, da bị mất nước và thiếu độ ẩm, không còn mịn màng mà trở nên thô ráp.
- Da kém săn chắc và có nếp nhăn: do hoạt động của mạng collagen và Elastin bắt đầu suy yếu, sự kết hợp lỏng lẻo dần.
- Da sạm: là hậu quả của quá trình oxy hóa tổng hợp melanin tăng. Melanin được sản xuất nhiều sẽ làm cho da sạm, xỉn màu, trường hợp nặng gây ra tàn nhang, đốm nâu và nám da.
Công nghệ tế bào gốc kết hợp kim lăn có khả năng làm đầy các rãnh nhăn nhỏ và mỏng trên lớp biểu bì, giúp da trở nên mềm mịn và cấu trúc da được cải thiện đẹp hơn. Làn da của bạn có một chút màu đỏ ngay sau khi điều trị, nhưng điều này sẽ giảm dần trong khoảng thời gian một giờ. Công nghệ này thực hiện một cách an toàn trên mọi loại da. Các lớp biểu bì của da không bị hư hại mà được tăng sự thẩm thấu của các hoạt chất trẻ hóa da giúp tăng sinh collagen, khiến làn da lấy lại được sự căng, săn chắc chỉ một tuần sau lần trị liệu.Lứa tuổi này cần bắt đầu chăm sóc da chuyên sâu hơn, hiệu quả nhất là lựa chọn các giải pháp giúp củng cố và tăng cường hoạt động cho mạng collagen và elastin của da.
Màng collagen tại lớp thân bì của da vì thế mà đầy dần lên nhanh chóng, các sợi collagen yếu được bổ sung săn chắc hơn, các nếp nhăn nhỏ vì thế mà đầy dần lên và làn da săn chắc, căng bóng hơn. Tất cả các khách hàng đã điều trị kim lăn chống nhăn và làm săn chắc da tại Placencare đều bày tỏ sự hài lòng về kết quả cảm nhận rõ rệt chỉ sau một tuần làm trị liệu.Cơ chế tác động của kim lăn là nhằm kích thích và thúc đẩy sự hoạt động của các tế bào gốc của da, bắt các tế bào gốc hoạt động, tái tạo trẻ hóa da liên tục và sản sinh ra nhiều collagen hơn, thông qua một phức hợp các tác động sinh lý học. Đầu kim khi tác động trên da sẽ gây ra “những tổn thương giả mạo” rất nhỏ, giúp thúc đẩy hoạt động của tế bào mà không phá hủy chúng, kích thích và biến đổi tế bào da phát triển tới tế bào sừng - lớp trên cùng của biểu bì. Tại lớp trung bì, các nguyên bào sợi tăng sinh và di chuyển tới điểm mới bị “tổn thương giả”, hình thành collagen và elastin để làm đầy dần vết thương lên.
Ngoài việc làn da căng mịn, da còn sáng và đồng màu hơn rất nhiều do sắc tố da được cân bằng và cải thiện.

Bài thuốc dân gian chữa bệnh xơ gan


Trong khi tìm hiểu về benh xo gan, tôi đã biết đến một bài thuốc dân gian chữa benh xo gan rất hiệu quả, do một bệnh nhân từng mắc bệnh xơ gan đã chữa khỏi và truyền lại.

Bác là một bệnh nhân khoảng 40 tuổi được bênh viện Việt Trì (Phú Thọ) xác định là xơ gan cổ chướng, bụng đã nổi to không chữa được nữa, trả về nhà chỉ có chờ chết. Một hôm có người đến thăm mách bài thuốc này, anh ta uống bài thuốc này được khoảng hơn 1 tháng sau thì khỏi, 3 tháng sau thì khoẻ mạnh.

bệnh xơ gan
Rau má giúp chữa bệnh xơ gan


Bài thuốc có các vị rất dễ kiếm. Công thức lại rất đơn giản:
  -  Cây mào gà loại hoa trắng(hoặc hoa vàng):30g
  -  Rau má 15 g
  -  Nhân trần: 15g
ba vị trên rửa sạch, cho vào ấm đất thêm 2 bát nước lã vào đun sôi nhỏ lửa khoảng 10 phút (kể từ khi sôi) thì rót ra uống. Tiếp tục đun và uống 3 lần như vậy thì bỏ bax đun lấy ấm thuốc mới.
Người nhẹ thì ngày uống 1 ấm thuốc như vậy(3 lần), người nặng có thể ngày uống 2 ấm thuốc. Thuốc phơi khô thì dung liệu lượng như trên, nếu cây thuốc tươi thì có thể dùng liều lượng gấp rưỡi.
Chú ý:
  -  Cây mào gà phải bỏ hạt vì uống hạt nhiều có thể bị giãn đồng tử mắt.
  -  Benh xo gan có nhiều dạng, chỉ dạng xơ gan nào có các triệu trứng sau thì dùng mới hiệu quả:
Đau tức vùng gan, đầy bụng khó tiêu, chân tay lạnh, đi ngoài phân nát (dễ đi) có thể ngày đi ngoài 2 hoặc 3 lần, thích ăn của ngọt, mạch trì và vô lực (chậm và yếu).
Bài thuốc này có 2 vị nhân trần và rau má thì ở đâu cũng có, riêng cây mào gà trắng (hoặc hoa vàng) thì hơi khó kiếm. Tôi có lưu giữ được hạt và cây giống rất nhiều, nếu ai có nhu cầu tôi xin tặng miến phí chỉ mong sao cùng mọi người cùng giữ gìn được vị thuốc quý trong dân gian.