November 8, 2012

Kiểm soát các tác nhân gây ung thư gan


Ung thư gan - Một căn bệnh ác tính thầm lặng nên cần phải kiểm soát thường xuyên

Theo thống kê của tổ chức về sức khỏe thế giới, hiện nay trên toàn cầu có khoảng 400 triệu người bị nhiễm siêu vi B, trong đó khoảng 75% nằm ở khu vực châu Á. Và đáng lo ngại hơn là người dân ở đây không có ý thức kiểm tra sức khỏe thường xuyên, nên khi được chẩn đoán ung thư gan thường đã quá trễ.
Ung thư gan - Căn bệnh ác tính thầm lặng
Bên cạnh một số hiện tượng như mệt mỏi, chán ăn, cảm giác tức sườn bên phải, nhưng không đáng kể, ung thư gan thường không có triệu chứng đặc biệt nào khác ở giai đoạn đầu. Do vậy, bệnh nhân thường nhầm lẫn với bệnh khác, hoặc phớt lờ nếu không chú ý. Những triệu chứng lâm sàng chỉ thể hiện rõ rệt ở giai đoạn cuối của khi bệnh đã trầm trọng như sụt cân, bụng chướng, buồn nôn, nóng sốt, đau nhiều ở hạ sườn phải…
Người có tiền sử bệnh viêm gan siêu vi B, C rất dễ mắc ung thư gan

Hiện tại, theo các nhà khoa học, hơn 70% bệnh nhân mắc bệnh ung thư gan có tiền sử bệnh viêm gan siêu vi B, C. Bệnh chủ yếu lây lan qua đường máu, quan hệ tình dục, cũng như mẹ truyền sang con. Điều đáng quan ngại là tỉ lệ người nhiễm virus viêm gan B tại Việt Nam khá cao, và hiểu biết về bệnh còn thấp.
Mặt khác, xơ gan cũng là một yếu tố gây bệnh, bắt nguồn từ những thói quen khá bình thường của người Việt như uống nhiều rượu, ăn dầu mỡ... Khi bị xơ gan, các tế bào gan lành sẽ bị các mô cứng thay thế. Tuy nhiên, số bệnh nhân xơ gan biến chứng thành ung thư gan chỉ chiếm khoảng 5%.
Ngoài ra, chất độc Aflatoxin, một chất gây ung thư tương tác với virut viêm gan B cũng đã được chứng minh là có thể gây ung thư gan. Người ta có thể bị nhiễm chất độc này  do ăn phải ngũ cốc bị mốc có aflatoxin hoặc ăn thịt các động vật được nuôi bằng ngũ cốc nhiễm chất này. Và yếu tố di truyền trong gia đình có tiền sử người mắc bệnh ung thư gan cũng  có thể là nguyên nhân gây  bệnh.

Chẩn đoán sớm đóng vai trò quan trọng
Ung thư gan giai đoạn cuối có thể coi là vô phương cứu chữa. Vì vậy, vai trò của phát hiện sớm rất quan trọng, theo đó bệnh nhân có thể được chữa trị để hạn chế tái phát bằng một số phương pháp chủ đạo như: Phẫu thuật, hóa trị làm nghẽn động mạch gan (TACE), đốt khối u bằng sóng radio cao tần.
Bên cạnh đó, chất Sorafenib với cơ chế “nhắm trúng đích” tác động trực tiếp vào các tế bào ung thư, ngăn cản sự phát triển của chúng, đồng thời cũng ngăn cản máu lưu thông tới nuôi dưỡng khối u. Sorafenib không chữa khỏi bệnh nhưng nó trì hoãn quá trình tiến triển của bệnh một cách đáng kể, giúp kéo dài sự sống cho bệnh nhân ở giai đoạn hai.
Do vậy, ngoài chú trọng việc ăn uống, chúng ta cần kiểm tra sức khỏe định kỳ, nhằm phát hiện sớm các bệnh về gan, và đặc biệt là ung thư gan. Có như vậy thì những phương pháp điều trị mới có tác dụng kịp thời, và hiệu quả, tránh được việc di căn qua các bộ phận khác.
Ngoài ra, phòng bệnh là việc vô cùng quan trọng. Một số biện pháp có thể phòng bệnh ung thư gan như: tiêm ngừa vaccine phòng chống viêm gan B, C, hạn chế rượu bia, thức ăn với hàm lượng chất béo cao, cũng như không sử dụng các thực phẩm ngũ cốc bị nấm mốc, và điều chỉnh phong cách sống lành mạnh.

Xem thêm:

Ung thư gan có thể chữ được nếu phát hiện sớm



Ung thư gan là nguyên nhân gây tử vong chính trên thế giới

Ung thư gan là nguyên nhân gây tử vong chính trên toàn thế giới với hơn 600.000 ca tử vong mỗi năm. Ở châu Á, nơi có tỉ lệ mắc viêm gan B khá cao, ung thư gan đặc biệt phổ biến. Chúng ta có thể phát hiện ra căn bệnh ung thư gan sớm và chữa trị kịp thời thông qua kiểm tra và chẩn đoán định kỳ.
Các nhân tố có khả năng dẫn đến ung thư gan nguyên phát bao gồm viêm gan B, uống rượu, gan nhiễm mỡ và viêm gan C… Ở Bangladesh, viêm gan B và gan nhiễm mỡ là những nguyên nhân gây ung thư gan phổ biến nhất với khoảng 6% tổng dân số mắc viêm gan B mãn tính, 20% bị gan nhiễm mỡ.
Gan là một cơ quan có khả năng dự trữ rất lớn. Chúng ta có thể hoạt động tốt ngay cả khi bị mất 60 - 70% thể tích gan. Do đó, ở bệnh nhân bị ung thư gan khối u nhỏ, bệnh sẽ không ảnh hưởng tới chức năng gan và không gây đau đớn. Y học có thể chữa trị được ung thư gan khối u nhỏ, nhưng chúng gần như không có triệu chứng bệnh nên rất khó phát hiện để chữa trị kịp thời.
Bởi vì ung thư gan nguyên phát phát triển ở những bệnh nhân viêm gan B, C, gan nhiễm mỡ và thường xuyên uống rượu, các bác sĩ khuyến cáo mọi người nên khám định kỳ 6 tháng/ 1 lần để xét nghiệm ung thư gan.
Khi khối u ung thư gan lớn hơn, nó làm tổn thương chức năng gan và bệnh nhân bắt đầu sụt cân, vàng da, bị đau ở vùng bụng phía trên bên phải. Ở giai đoạn này vẫn có thể chữa được nhưng nếu khối u tiếp tục phát triển, nó có thể lan ra và không thể chữa khỏi.
Kiểm tra và chẩn đoán:
Chúng ta có thể phát hiện ra căn bệnh ung thư gan sớm và chữa trị kịp thời thông qua kiểm tra và chẩn đoán định kỳ. Các kiểm tra được chia thành 3 loại:
Sinh thiết gan: Đây là phương pháp chính xác nhất giúp chẩn đoán ung thư gan nhưng lại hạn chế sử dụng bởi vì nó gây đau đớn và có 5% khả năng khiến khối u lan ra dọc đường sinh thiết.
Kiểm tra máu: Bệnh nhân nhiễm virus viêm gan B hoặc các bệnh gan khác nên kiểm tra chỉ số alpha fetoprotein 6 tháng/ 1 lần để phát hiện ung thư sớm.
Chẩn đoán hình ảnh: Có thể chẩn đoán và phát hiện bệnh ung thư gan nhờ hình ảnh như chụp siêu âm (USG); Chụp CT 3 pha; Chụp cộng hưởng từ có thuốc cản quang (MRI) và chụp PET-CT scan... Ở Trung tâm Ung thư Gan tại bệnh viện Gleneagles, thuộc tập đoàn Y tế Parkway (Singapore), các phương pháp chụp này đều được ứng dụng hiệu quả để phát hiện căn bệnh ung thư gan sớm nhất.
Ung thư gan có thể chữa được nếu phát hiện sớm
Ung thư gan có thể được chữa khỏi nếu phát hiện kịp thời bằng 2 phương pháp cấy ghép gan hoặc phẫu thuật cắt bỏ.
Phẫu thuật cắt bỏ: Phẫu thuật này nhằm cắt bỏ phần ung thư ra khỏi gan. Ung thư khu trú ở 1 phần của gan và phần còn lại có thể vẫn khỏe mạnh.
Cấy ghép gan: Nếu ung thư gan có ở cả 2 thùy gan hoặc gan không bị ung thư không khỏe thì không thể tiến hành phẫu thuật cắt bỏ được mà phải sử dụng phương pháp cấy ghép gan, có nghĩa là cắt bỏ toàn bộ gan và thay thế bằng nửa lá gan từ 1 người hiến tặng khỏe mạnh. Cấy ghép gan là phương án điều trị tốt nhất bệnh ung thư gan khi mà ung thư vẫn chưa di căn ra ngoài. Ở trung tâm  Ung thư Gan tại bệnh viện Gleneagles, 85 % bệnh nhân cấy ghép gan được trông đợi sống trên 5 năm.
Lựa chọn phương pháp điều trị tạm thời
Điều trị tạm thời ung thư gan có thể kiểm soát sự phát triển của khối u, nhưng thường ung thư không thể bị tiêu diệt tận gốc và rất ít khả năng kéo dài sự sống trên 5 năm.
Hóa trị liệu làm nghẽn động mạch gan (TACE): Hóa chất trị liệu được tiêm trực tiếp vào khối u ung thư qua một ống rỗng đặt vào mạch máu của khối u ung thư gan và làm nghẽn mạch máu đến gan. Với phương pháp này, bệnh nhân có thể bị đau và sốt vì một phần gan khỏe mạnh xung quanh khu vực ung thư cũng sẽ bị tổn thương. Bên cạnh đó, khối u hơn 3 cm không có khả năng bị tiêu diệt hoàn toàn.
Tách bỏ tế bào ung thư nhờ tần số phóng xạ (RFA): Quá trình RFA nhằm đốt cháy tế bào ung thư nhờ một ống kim loại đưa trực tiếp vào khối u, tuy nhiên phương pháp trị liệu này cũng có những nhược điểm như phương pháp TACE.
Thuốc uống: Sorafenib (Nexavar®, Bayer Pharmaceutics) là hóa chất trị liệu mới nhất được FDA, Hoa Kì cho phép sử dụng. Đó là thuốc uống có hiệu quả trong việc kéo dài sự sống và cải thiện chất lượng cuộc sống.
Đối với bệnh nhân không thể cắt bỏ khối u ung thư hoặc bệnh nhân ung thư di căn, Nexavar® là sự lựa chọn tốt nhất. Tuy nhiên, ngay cả với loại thuốc mới này, một nửa số bệnh nhân tử vong trong vòng 1 năm và không có khả năng sống trên 2 năm. Bên cạnh đó, loại thuốc này rất đắt, khoảng 5000-7000 USD mỗi tháng.
Khi điều trị ung thư gan, nhiều nhân tố cần được xem xét như: tuổi, tình trạng sức khỏe của bệnh nhân, mức độ bệnh và lan rộng của ung thư...
Tuy nhiên, quan trọng nhất vẫn là kinh nghiệm và kĩ năng của các bác sĩ. Tất cả các phương pháp điều trị đều phụ thuộc vào người thực hiện và bác sĩ phụ trách phải quyết định chọn phương pháp điều trị tốt nhất cho mỗi một bệnh nhân. Đó cũng chính là điều được các bác sĩ ở Trung tâm Ung thư Gan tại bệnh viện Gleneagles ứng dụng.

Tham khảo thêm:

Giải pháp mới trong điều trị ung thư gan: SIR-Speres Microspheres



Cach dieu tri ung thu gan bằng phương pháp Phóng Xạ Nội Y

SIR-Spheres microspheres là phương pháp mới trong điều trị ung thư gan. Trường hợp khối u trong gan không thể phẫu thuật được,  SIR-Spheres microspheres có thể dùng như một liệu pháp không chiếu xạ và tấn công trực tiếp vào khối u.  Phương pháp này gọi là Liệu Pháp Phóng Xạ Nội Y. Phương pháp này sử dụng hàng ngàn tia microspheres nhỏ có chứa thành phần kích hoạt yttrium-90. SIR-Spheres microspheres rất nhỏ, khoảng 32 microns.

Tiến trình được diễn ra qua một đường dẫn nhỏ vào gan và SIR-Spheres microspheres được truyền qua ống dẫn này. Microspheres với chất phóng xạ yttrium-90 được đưa vào máu tới khối u trong gan dẫn tới các mạch máu nhỏ nuôi  khối u và đưa dòng phóng xạ vào.  Không giống như tia xạ khi chiếu từ bên ngoài chỉ có thể tới một số bộ phận của cơ thể, SIR-Spheres microspheres có khả năng mang lại lượng phóng xạ trực tiếp vào tế bào ung thư trong 1 thời gian dài hơn.

Ứng dụng của SIR-Spheres Microspheres:

Xạ trị là một liệu pháp hiệu quả nhằm tiêu diệt khối u và được sử dụng rộng dãi trong việc điều trị ung thư. Tuy vậy, các bộ phận của cơ thể nhạy cảm với tai xạ và khi dùng ở liều cao sẽ gây ra các phản ứng nguy hiểm. SIR-Spheres microspheres với kỹ thuật SIRT cho phép tiêu diệt tại chỗ khối u trong gan, đồng thời bảo vệ các tế bào khác.

SIR-Spheres microspheres được thực hiện bởi chuyên gia chuẩn đoán hình ảnh can thiệp.  Bệnh nhân có thể được điều trị ngoại trú và được gây tê tại vùng. Một vết cắt nhỏ tại phần bẹn cùng với ống mềm được đưa vào gan dưới sự trợ giúp của máy X-quang. Ống này được đưa vào động mạch gan và chuyên gia chuẩn đoán hình ảnh can thiệp sẽ đưa SIR-Spheres microspheres vào khối u gan. SIR-Spheres microspheres được truyền trong 15 phút.  Toàn bộ  quá trình sẽ  được tiến hành trong 1 giờ.

Sau khi truyền xong, bệnh nhân sẽ  được chụp để kiểm tra độ  phóng xạ  của SIR-Spheres microspheres trong gan. Bệnh nhân sẽ  được theo dõi trong vài giờ và xuất viện sau 24h. 
Một số điều lưu ý là 1 tuần sau khi điều trị, bệnh nhân không nên tiếp xúc người khác quá 2giờ. Bệnh nhân nên nằm riêng, đặc biệt không gặp gỡ tiếp xúc gần phụ nữ có thai, trẻ em và vật nuôi.  Sau 1 tuần thì bệnh nhân sẽ trở lại cuộc sống sinh hoạt bình thường.  

Cach dieu tri ung thu gan bằng phương pháp SIR-Spheres Microspheres phù hợp với những bệnh nhân:
  • Bệnh nhân ung thư đại tràng đã di căn và không thể phẫu thuật được, có nghĩa là ung thư bắt nguồn từ bụng và lan tỏa ra gan hoặc ung thư gan.
  • Bệnh nhân với một phần lớn gan bị hủy họai (điều này thấy được qua thử máu).
Trước khi được tiến hành, bệnh nhân sẽ chụp động mạch vành để  xác định mạch máu gan có khả năng nhận được SIR-Spheres microspheres hay không.

Các xét nghiệm cơ bản khác bao gồm thử máu, chụp X-Quang hoặc  CT lồng ngực để  loại  bỏ khả  năng ung thư phổi.

Các phản ứng phụ là gì:

Bệnh nhân sẽ không bị phản ứng phụ nặng nề khi được dùng SIR-Spheres microspheres đúng cách. Tuy vậy, trong khi truyền SIR-Spheres microspheres, bệnh nhân có thể  cảm thấy đau. Trường hợp này bệnh nhân sẽ được kê thuốc giảm đau trong quá trình truyền SIR-Spheres microspheres.  Đôi khi bệnh nhân thấy đau ở bụng khoảng và giờ sau khi truyền SIR-Spheres microspheres.  Một số bệnh nhân bị sốt kéo dài khoảng 1 tuần.  Một số khác có thể có cảm giác buồn nôn, nhưng triệu chứng này sẽ qua đi theo thời gian và sau khi dùng thuốc. Nhiều bệnh nhân cảm thấy mệt mỏi, kém ăn 1 vài ngày sau khi truyền nhưng cũng sẽ hết. Một số  bệnh nhân cần dùng thuốc phụ trợ trong tháng đầu tiên sau khi truyền SIR-Spheres microspheres để  bảo vệ  dạ dày và viêm loét dạ  dày.

Rủi ro khác có thể  gây ra phản ứng phụ khá nghiêm trọng nếu SIR-Spheres microspheres không được đưa vào đúng mạch máu dẫn vào gan. Trường hợp này SIR-Spheres microspheres có thể bị  truyền vào bụng, tá tràng, tụy hoặc  các bộ  phận khác, gây nguy hiểm có thể dẫn đến tử vong. Chuyên gia chuẩn đoán hình ảnh can thiệp được đào tạo cách truyền SIR-Spheres microspheres. Mỗi bệnh nhân sẽ  được truyền theo liều lượng khác nhau.  Nếu truyền quá liều, một số  bệnh nhân sẽ bị  ảnh hưởng lâu dài đến chức năng gan.

Xem thêm:


November 7, 2012

Hướng điều trị ung thư gan


Nguyên nhân và cach dieu tri ung thu gan

Chức năng chính của gan là lọc máu, giúp cho máu lưu thông khắp cơ thể, giúp chuyển hoá chất dinh dưỡng và hấp thụ thuốc từ cơ quan tiêu hoá bằng các hợp chất sinh học sẵn có. Gan có nhiều chức năng quan trọng, như loại bỏ độc tố và bài tiết các chất hoá học độc hại trong máu. Vì vậy nên tất cả lượng máu trong cơ thể đều  phải lọc qua gan,  

Hầu hết ung thu gan là do tự phát hoặc do di căn, tức là bắt đầu từ một khối u ác tính ở cơ quan nào đó trong cơ thể nhưng chủ yếu bắt nguồn chính ở trong gan.

Nguyên nhân nào dẫn tới ung thư gan: 

Khuyết tật bẩm sinh, uống rượu, viêm gan B hay viêm gan C, xơ gan do uống rượu, thừa sắt, thì thậm chí nguy cơ ung thư còn hơn rất nhiều,  phơi nhiễm thuốc diệt cỏ và các chất hoá học như nhựa viny clorua và thạch tín, hút thuốc lại hay uống rượu ,…

Cach dieu tri ung thu gan:



Tôi giới thiệu cho anh chị Sử dụng Sản phẩm dược Moricitri. Sản phẩm dược có hoạt tính sinh học Moricitricó tác dụng phát hiện và ngăn chặn sự phát triển của tế bào ung thư và đào thải độc tố và mầm bệnh ra khỏi cơ thể, có thể tiêu diệt các tế bào ung thư, đẩy mạnh việc tái tạo các tế bào khỏe mạnh mới, chống đỡ các tác dụng phụ và tăng cường chức năng miễn dịch  trong cơ thể . Sản phẩm dược có hoạt tính sinh học Moricitrigiúp việc kích hoạt những tế bào bạch cầu của cơ thể.Những tế bào bạch cầu được kích hoạt sẽ giết và ăn những tế bào ung thư .Chúng tạo ra nhiều protein được gọi là cytonike để tiêu diệt và hủy hoại khối u. Bên cạnh đó ,tế bào bạch cầu giúp làm giảm ác tính của tế bào ung thư, và làm cho chúng yếu dần, điều này giúp bình thường hóa những tế bào tiền ung thư và ngăn ngừa sư phát triển của ung thư

Sản phẩm dược có hoạt tính sinh học Moricitri giúp phục hồi Gan rất tốt.


Xem thêm:

Các cách điều trị ung thư gan nguyên phát


Các cach dieu tri ung thu gan nguyên phát

Nguyên tắc điều trị: hiện nay có nhiều cach đieu tri ung thu gan nguyên phát trên thế giới, để lựa chọn phương pháp thích hợp với từng bệnh nhân thường được các bác sĩ dựa vào:
+ Giai đoạn của bệnh, số lượng và kích thước khối u
+ Khối u có di căn hay không
+ Bản chất mô học của khối u
+ Chức năng gan: ung thư gan trên một gan lành hay gan đã bị xơ
+ Tâm trạng bệnh nhân có chấp nhận được cuộc điều trị không.
NGOẠI KHOA: là cach dieu tri ung thu gan kinh điển, gồm nhiều cách khác nhau
  • Cắt bỏ khối u: Là ưu tiên lựa chọn hàng đầu

+ Chỉ định: ung thư gan 1 khối, hoặc nhiều khối nhưng tập trung ở 1- 2 phân thuỳ, gan không xơ, chức năng gan còn tốt và không có di căn.
+ Chống chỉ định:
         - U gan có nhiều khối và đã có di căn.
         - Khối u xâm lấn tĩnh mạch cửa.
         - Suy giảm chức năng gan (vàng da, giảm albumin máu, giảm prothrombin).
         - Tăng áp lực tĩnh mạch cửa cửa mất bù (cổ chướng, hội chứng não gan).
+ Phương pháp: bệnh nhân được cắt nửa gan phải, trái hoặc cắt phân thuỳ gan. Nếu trong khi mổ phát hiện không cắt bỏ được khối u, có thể đặt catheter vào động mạch gan để truyền hoá chất.

  • Thắt động mạch gan:

-  Thắt động mạch gan chung hoặc gan riêng làm cắt nguồn nuôi dưỡng của khối u, dần dần khối sẽ bị hoại tử nhỏ. Đơn giản nhưng ít hiệu quả, đôi khi nguy hiểm vì có thể gây hôn mê gan.
-  Chỉ định: đối với các ung thư gan nhiều ổ, lan toả hoặc chảy máu do vỡ nhân ung thư không cầm được mà không có khả năng cắt bỏ u.

  • Ghép gan:

-  Là phương pháp tốt nhất, nhưng tốn kém, kỹ thuật rất phức tạp.
-  Chỉ định: Ung thư gan nhiều khối trên gan xơ hoặc lành, chưa có di căn xa.
NỘI KHOA:
  • Tiêm cồn hoặc acid acetic qua da

+  Tiêm cồn tuyệt đối vào khối u qua da:
Nguyên lý: cồn tuyệt đối hoặc acid acetic để gây hoại tử và gây tắc mạch khối u. Cồn ít độc với gan do tiêm tại khối u
-  Chỉ định: khối u < 3cm (có thể 5cm)
Cồn tuyệt đối 96% tiêm vào khối u dưới hướng dẫn siêu âm, soi ổ bụng hoặc chụp cắt lớp
Thường tiêm 5 – 10ml mỗi mũi, thực hiện 3 lần/ tuần đều đặn trong 3 – 4 tháng
-  Là biện pháp điều trị đơn giản, không đắt tiền, hiệu quả và dung nạp tốt
+  Tiêm acid acetic qua da:
-  Biện pháp hiệu quả tương tự tiêm cồn tuyệt đối
-  Sử dụng dung dịch acid acetic 40 – 50%, mỗi lần tiêm 2 – 5ml vào khối u gây hoại tử.

  • Điều trị nhiệt qua da:

- Mục đích: gây hoại tử khối u gan bằng nhiệt (có thể gây đông lạnh hoặc nhiệt độ cao)
- Đốt khối u gan bằng tia laser: Bằng một đầu dò đặt vào giữa khối u, tia laser với bước sóng 1,064nm sẽ được chuyển thành nhiệt gây hoại tử khối u. Đầu dò có thể đặt dưới hướng dẫn của siêu âm. Nên áp dung để hoại tử khối u với kích thước < 5cm
- Đông lạnh khối u bằng siêu âm: Gây hoại tử khối u bằng đông lạnh dưới siêu âm thông qua đầu dò đặc biệt đặt trong lòng kim kích thước 14G.
- Đốt khối u gan bằng sóng cao tần:Chỉ định cho khối u kích thước nhỏ, chưa di căn. Sử dụng nhiệt độ của sóng cao tần phát ra từ đầu kim được đưa vào trong lòng khối u để làm đông vón tế bào ung thư. Phương pháp này an toàn, ít biến chứng, tốt với các ung thư gan kích thước còn bé.

  • Can thiệp qua catheter động mạch gan

- Tiêm hoá chất vào động mạch nuôi khối u:
- Bơm thuốc qua catheter được đặt vào nhánh động mạch nuôi khối u để tập trung nồng độ thuốc cao trong khối u giúp diệt tế bào ác tính.
- Thuốc thường dùng: 5 FU. Hiện nay thường được thực hiện cùng lúc trong khi làm thủ thuật nút mạch.
Thuốc được trộn trong lipiodol, khi vào gan, các tế bào Kuffer và hệ bạch mạch của tổ chức gan lành lọc đi nhanh chóng. Nhưng ở tổ chức ung thư không có tế bào Kuffer nên lipiodol và thuốc bị giữ lại sau 2- 3 tuần, có theo dõi quá trình điều trị.

  • Điều trị bằng gây tắc mạch:

Đưa ống thông qua động mạch chủ bụng vào động mạch gan chung rồi vào một nhánh của động mạch nuôi khối u gây tắc mạch. Do khối u gan được nuôi bởi động mạch nên nút mạch này lại sẽ làm hạn chế được sự phát triển khối u, làm hoại tử và hình thành một vỏ xơ bao bọc khối u. Vật gây tắc có thể là: Spongel, hoặc Lipiodol siêu ngấm.
+ Chỉ định: Ung thư gan một khối trên nền gan lành hoặc gan xơ, khối u càng nhỏ càng tốt
+ Chống chỉ định:
       -  Ung thư gan có nhiều khối và lan toả.
       -  Ung thư gan có di căn tĩnh mạch cửa hoặc đã di căn xa
       -  Suy gan nặng
      -  Phối hợp tiêm hoá chất vào động mạch trước rồi gây tắc mạch sau làm tăng hiệu quả điều trị.
Thủ thuật này thường phải tiến hành 1- 3 lần mới có hiệu quả.

  • Xạ trị qua đường động mạch: đưa lipiodol gắn Iod 131 vào khối u qua đường động mạch

  • Điều trị hoá chất

+  Các thuốc chống ung thư: các thuốc sau thường dùng và có tác dụng tốt:
         - Doxorubicin(Adreamicin): ức chế tổng hợp ADN và ARN
         - 5 FU: thuốc ức chế sự hình thành và hoạt động của ADN và ARN
       - Mitomycin C:  cản trở sự phân bào, do gắn với ADN. Với nồng độ cao ức chế tổng hợp ARN và protein tế bào.
         - Cisplatine.
+ Truyền hoá chất theo đường tĩnh mạch:
Doxorubicin: 60mg/m2, cứ 3 tuần nhắc lại 1 lần. Hoặc 30mg/ m2 da truyền liên tục trong 3 ngày, sau 4 tuần nhắc lại. Tổng liều không quá 550 mg. Những bệnh nhân có vàng da phải giảm liều
5 FU: 12 mg/ kg/ ngày (không quá 800 mg) trong 4 ngày. Nếu bệnh nhân chịu được, ngày thứ 6, 8, 10, 12 truyền 6mg/ kg/ ngày. Nhắc lại sau 1 tháng kể từ ngày dùng thuốc cuối cùng.
Mitomycin - C: 20 mg/ m2 da, nhắc lại sau 6- 8 tuần
Cisplatine.
Tuy nhiên dùng hoá chất theo đường toàn thân nên sẽ có nhiều tác dụng phụ như: gây độc tuỷ xương, rối loạn tiêu hoá, suy gan thận...
- Tiêm hoá chất qua dây chằng tròn:
+ Ưu điểm: thuốc sẽ tập trung ở khối u nhiều hơn là đường tĩnh mạch, nhưng hiệu quả kém hơn phương pháp tắc mạch hoặc tiêm thuốc vào động mạch khối u.
+ Chỉ định:
Ung thư gan 1 khối sẽ cho kết quả tốt hơn
Ung thư gan nhiều khối: kết quả hạn chế rất nhiều
Thuốc thường dùng 5 FU. Tiến hành khi soi ổ bụng. Thường phải làm 1- 3 lần.
- Điều trị bằng các chất đồng vị phóng xạ
+ Dung dịch ethyl ester của LIPIOCIS, 1110 MBq/ml
+ Đường tiêm: tiêm qua lách hoặc động mạch mạc treo tràng trên, hoặc qua động mạch gan.
+ Chỉ định: Ung thư gan, kể cả đã di căn tĩnh mạch cửa, không phẫu thuật hoặc ghép gan được.
+ Chống chỉ định:
Ung thư gan giai đoạn 3: khối đã quá lớn, nhiều khối lan toả hoặc có di căn xa
Đang có thai hoặc cho con bú.
Sau lần tiêm thứ nhất, tiêm nhắc lại vào các tháng 2, 5, 8, 12.

  • Điều trị triệu chứng:

- Giảm đau: theo hướng dẫn WHO
Bậc 1: giảm đau đơn thuần - Paracetamol: 2 – 3 g/ngày.
Bậc 2: giảm đau kết hợp - Paracetamol + codein (efferalgan codein): 2 – 3 g/ngày. Paracetamol + dextropropoxyphene (Di-antalvic): 4 – 6 viên/ngày
Bậc 3: Morphin
- Nếu cổ chướng: lợi tiểu, chọc tháo, truyền đạm. Dinh dưỡng đầy đủ.
- Theo rõi kết quả điều trị: được coi là có kết quả tốt khi lâm sàng bệnh nhân đỡ đau hoặc hết đau, tăng cân, gan nhỏ lại, ăn ngon miệng, định lượng AFP giảm, siêu âm hoặc chụp cắt lớp thấy khối u bị hoại tử hoặc nhỏ lại.

Tham khảo thêm: