July 18, 2013

Phương pháp ghép gan qua góc nhìn chuyên gia Singapore

Tối đa khoảng 75% bệnh nhân được chữa khỏi bệnh ung thư gan giai đoạn đầu nhờ ghép gan. Đây cũng là giải pháp mang lại sự sống cho những bệnh nhân bị suy gan cấp tính do dùng thuốc.

Dưới đây là các chia sẻ của bác sỹ tới từ Bệnh viện Gleneagles, Singapore về ca phẫu thuật mang tính chất sống còn này.

Lá gan mới - Cuộc sống mới

Theo BS.Tan Yu-Meng, chuyên gia ghép gan và phẫu thuật gan mật tụy, các nguyên nhân chủ yếu cần phải ghép gan khi lá gan tổn thương nghiêm trọng là:



- Xơ gan, nghĩa là lá gan bị hỏng hay sẹo, thường gây ra do viêm gan B hay C mãn tính, sử dụng đồ uống có cồn trong thời gian dài, gan nhiễm mỡ nặng hoặc do các bệnh tự miễn.

- Ung thu gan, nguyên nhân gây ra có thể bởi tất cả các yếu tố trên, bệnh tiểu đường, hút thuốc, béo phì, và phơi nhiễm với các hóa chất độc hại như aflatoxins.

Ở trẻ em, nguyên nhân chủ yếu của ghép gan là do hẹp ống dẫn mật, nghĩa là ống mật của gan bị teo, tắc nghẽn hoặc tổn thương. Điều này làm cho dịch mật ứ đọng trong gan, dẫn tới tổn thương gan và xơ gan.

Ghép gan giúp tăng khả năng chữa ung thư gan và làm giảm nguy cơ tái phát vì “yếu tố nguy cơ” chủ yếu đã được loại bỏ. Tối đa khoảng 75% bệnh nhân được chữa khỏi bệnh ung thư nhờ phương pháp này. Đây cũng là giải pháp mang lại sự sống cho những bệnh nhân bị suy gan cấp tính do dùng thuốc.

Các phương pháp ghép gan

Có hai phương pháp ghép gan: Ghép gan từ người hiến chết não (Deceased Donor Liver Transplantation - DDLT), nghĩa là cắt bỏ toàn bộ lá gan của người hiến chết não và được dùng để thay thế phần gan bị bệnh của người nhận; và ghép gan từ người hiến sống (Living Donor Liver Transplantation - LDLT).

Ghép gan từ người hiến sống nghĩa là người hiến sống sẽ hiến 50-70% lá gan của mình cho bệnh nhân. Qua ca phẫu thuật cắt bỏ gan được thực hiện một cách cẩn thận, phần được hiến sẽ được dùng để thay thế phần gan bị bệnh. Thủ thuật này có thể thực hiện được bởi vì lá gan (của cả người hiến và người nhận) đều có thể tự tái sinh tới thể tích và kích thước bình thường trong một khoảng thời gian ngắn là sáu tháng.

Trong phương pháp ghép gan từ người hiến sống, người hiến khỏe mạnh được chọn sẽ cần đảm bảo các chỉ số phù hợp với người nhận.

Theo BS. Tan Yu-Meng, ca phẫu thuật sẽ cần có hai đội ngũ bác sỹ phẫu thuật thực hiện đồng thời thủ thuật trên cả người hiến lẫn người nhận. Điều này đòi hỏi các kỹ thuật cao hơn so với ca ghép gan từ người hiến chết não, và chỉ có thể được thực hiện tại các trung tâm y tế chuyên biệt. Ghép gan từ người hiến sống phổ biến hơn ghép gan từ người chết não do số lượng gan của người hiến chết não là hạn chế.

Mặc dù ca phẫu thuật cho người hiến là an toàn và thường không cần phải truyền máu nhưng vẫn có những nguy cơ biến chứng (tối đa khoảng 15%) và tử vong (tối đa khoảng 0.05%) trong tổng số những người hiến tiềm năng.

Những lợi ích của ghép gan

Hầu hết người hiến gan đều có thể trở lại sinh hoạt bình thường trong vòng 3 tháng, và rất nhiều người trong số họ cảm thấy đó là một trải nghiệm đáng nhớ và có ích trong cuộc đời.

BS. Tan Yu-Meng chia sẻ rằng tỉ lệ thành công của người nhận cao hơn 90%, và kết quả của cả hai phương pháp Ghép gan này đều tương tự như nhau. Sau ca phẫu thuật ghép gan, người nhận cần uống thuốc ức chế miễn dịch suốt đời và thường xuyên kiểm tra theo dõi. Tuy nhiên, phần lớn bệnh nhân đều có thể quay trở lại cuộc sống bình thường trong vòng sáu tháng.

Trước ca phẫu thuật ghép gan

Nếu bạn cần phải ghép gan thì việc chăm sóc trước khi ghép là hết sức cần thiết nhằm đảm bảo bạn có tình trạng sức khỏe tốt nhất và không có yếu tố nào ảnh hưởng tới việc ghép gan.

BS. Vincent Lai, chuyên gia về tiêu hóa, khuyên rằng thường có hai cách kiểm soát phù hợp đối với bệnh gan cơ bản: hoặc loại bỏ nguyên nhân của tổn thương gan, hoặc điều trị bệnh nhằm tránh sự phát triển của bệnh gan. Vẫn có cơ hội để lá gan của bạn có thể hồi phục được đầy đủ chức năng và giữ được sức khỏe mà không cần phải ghép gan.

Ông còn chia sẻ thêm rằng các biến chứng như nhiễm trùng là phổ biến ở những bệnh nhân suy gan. Việc phòng tránh và điều trị nhiễm trùng phù hợp là điều chủ yếu bởi nhiễm trùng xuất hiện có thể dẫn tới tình trạng gan xấu đi và là điều chống chỉ định với ghép gan. Đối với những bệnh nhân ung thư gan đang chờ ghép gan, trong quá trình chờ có người hiến phù hợp thì họ vẫn phải điều trị để kiểm soát sự phát triển của các tế bào ung thư.

Sau khi ghép gan

Việc chăm sóc sau ghép sớm sẽ giúp việc hồi phục tốt hơn. Một trong những việc quan trọng sau ghép là việc dùng thuốc ức chế miễn dịch để chống thải ghép, khống chế viêm nhiễm, dinh dưỡng, nhận biết và kiểm soát sớm các dấu hiệu của biến chứng sau ca ghép gan.

Sau khi xuất viện, bạn cần được thăm khám thường xuyên để theo dõi tình trạng sức khỏe và chức năng của phần gan đã được ghép. Khoảng thời gian giữa mỗi lần thăm khám sẽ giãn ra theo thời gian.

Việc theo dõi dài kỳ là cần thiết để điều chỉnh thuốc ức chế miễn dịch, và cũng để kiểm soát các vấn đề về sức khỏe liên quan như tiểu đường, cholesterol cao, cao huyết áp và béo phì. Theo BS. Vincent Lai, tỷ lệ sống sau 5 năm là trên 80% ở các bệnh nhân ghép gan.

Xem thêm: triệu chứng ung thư gan

Dạo lạnh điều trị hiệu quả một số loại khối u

Kĩ thuật điều trị xâm nhập tối thiểu trúng đích khối u - Dao lạnh là phương pháp duy nhất trên thế giới với hệ thống y tế công nghệ cao điều trị ở nhiệt độ thấp âm 160 độ C và can thiệp nhiệt 20 độ để đảo ngược và nâng cao miễn dịch. Bởi hiệu quả sẽ cao hơn, tế bào ung thư bị tiêu diệt nhiều hơn so với việc chỉ dùng đơn thuần nhiệt hoặc áp lạnh để điều trị.

Cùng với sự phát triển điều trị ung thư của thế giới, kĩ thuật này thuộc điều trị vật lý, hiệu quả trong việc tiêu diệt khối u triệt để (95% trở lên), điều trị không dẫn đến sự gia tăng của các tế bào ung thư, quá trình điều trị xâm nhập tối thiểu không đau đớn, hồi phục nhanh, không gây tổn hại các mô bình thường, và khác với xạ hoá trị, điều trị dao lạnh không có tác dụng phụ, sau khi điều trị, chức năng miễn dịch của bệnh nhân được cải thiện rõ rệt, nâng cao tỷ lệ sống, ngoài ra chi phí điều trị thấp, thời gian nằm viện ngắn là những ưu điểm của phương pháp này.

Dao lạnh là kĩ thuật tiên tiến trong điều trị ung thư tiến triển sau các kĩ thuật như: đốt cao tần, viba, laser, dao gamma. Dao lạnh có lợi thế đáng kể trong điều trị ung thư phổi, ung thu gan, ung thư vú, ung thư thận, nó còn là kĩ thuật tiêu biểu trong điều trị ung thư của thế giới.

Trình tự điều trị của kĩ thuật này đã trở thành lựa chọn tốt nhất dành cho bệnh nhân ung thư, nhân được sự khẳng định lâm sàng trong việc điều trị tổng hợp nhằm giúp nâng cao hiệu quả điều trị. Theo số liệu thống kê kết quả lâm sàng cho thấy, điều trị ung thư giai đoạn muộn bằng dao lạnh đạt hiệu quả 96.5% (trong khi điều trị bằng hoá chất chỉ đạt hiệu quả 20-30%).

Kĩ thuật này phù hợp với điều trị ung thư phổi, khối u lành tính tại phổi, ung thư gan, ung thư thận, ung thư tuyến thượng thận, ung thư âm đạo, ung thư tử cung, ung thư cổ tử cung, ung thư buồng trứng, ung thư dương vật, ung thư da, ung thư hắc tố, ung thư máu, ung thư xương, ung thư amidan, ung thư vòm, ung thư mũi, u sợi thần kính, u mỡ, ung thư miệng, ung thư lưỡi, ug thư đầu cổ….
Dao lạnh phù hợp điều trị cho khối u thực thể ở các giao đoạn sớm, giai đoạn giữa và giai đoạn muộn, đặc biệt là dành cho những bệnh nhân ung thư giai đoạn muộn không còn khả năng phẫu thuật cắt bỏ, hoặc với những bệnh nhân lớn tuổi, do nhiều nguyên nhân không đồng ý phẫu thuật; những bệnh nhân không chịu nổi tác dụng phụ của hoá xạ trị; và cũng là lựa chọn cho bệnh nhân giai đoạn muộn đã di căn.

Với mong muốn giảm bớt đau đớn cho bện nhân, nâng cao hiệu quả điều trị tổng hợp, bệnh viẹn Ung Bướu Hiện Đại Quảng Châu tập trung đội ngũ chuyên gia giỏi về ngoại khoa, gan mật, ung thư, tiết niệu, CT, siêu âm, can thiệp… cùng áp dụng các phương pháp can thiệp, hoá trị, xạ trị, Đông Y kết hợp với dao lạnh đưa ra phác đồ điều trị tổng hợp và thích hợp nhất mang tính đột phá chỉ với vết thương nhỏ 1.47mm, pham vi làm dao lạnh lớn, có thể cùng lúc dùng 15 cây kim, giúp giảm bớt đau đớn, nâng cao chất lượng cuộc sống, kéo dài tuổi thọ cho bệnh nhân ung thư giai đoạn giữa, muộn.

July 17, 2013

Lưu ý khi sử dụng gừng

ANTĐ - Từ xưa, gừng được biết đến không chỉ như là một trong các loại thực phẩm gia vị, mà nó còn được dùng trong y học dân gian để điều trị hoặc làm giảm các triệu chứng bệnh lý thường gặp. Tuy nhiên, khi sử dụng gừng không đúng cách sẽ gây hại cho sức khỏe. Vì vậy, khi dùng gừng làm thuốc hay để ăn bạn hãy chú ý đến một số điều cần lưu ý sau.

Bệnh dạ dày: Đối với người bị đau dạ dày, viêm loét dạ dày, loét tá tràng sẽ được các bác sĩ khuyên không nên ăn gừng, vì trong thành phần của gừng có những chất chủ yếu hoạt động trên các niêm mạc dạ dày. Từ đó, các niêm mạc bị kích thích, bào mòn và gây ra những vết loét. Ngoài ra, khi đã được chẩn đoán có bất kỳ triệu chứng ung thư ở đường tiêu hóa thì chống chỉ định tuyệt đối không được ăn gừng vì nó sẽ kích thích khối u phát triển rất nhanh. Cũng giống như niêm mạc dạ dày, nếu ăn gừng với số lượng nhiều có thể gây ra những viêm, loét bao phủ hết thành ruột và đại tràng.

Bệnh gan: Người bị bệnh viêm gan cấp và mãn tính, bệnh xơ gan không nên ăn gừng vì nó kích thích sự bài tiết của các tế bào gan, vì những tế bào này sẽ bị hoại tử khi đang trong trạng thái được kích thích. Ngoài ra, người bị sỏi mật cũng được khuyên không nên ăn gừng vì nó sẽ làm cho các viên sỏi bị mắc kẹt trong đó, thậm chí trong nhiều trường hợp cần thiết phải phẫu thuật.

Bệnh trĩ, xuất huyết: Nếu bạn có tiền sử bị rối loạn chảy máu (trong đó có cả chảy máu cam, tử cung…) thì nên hạn chế ăn gừng ở bất kỳ dạng nào bởi nó sẽ làm tăng tình trạng chảy máu. Ngoài ra, bạn không được ăn gừng khi bị đột quỵ, nhồi máu cơ tim, huyết áp cao hay đã có tiền sử đột quỵ, nhồi máu và thiếu máu cục bộ.

Phụ nữ mang thai: Theo kinh nghiệm dân gian, gừng được dùng trong thời gian đầu của thời kỳ mang thai nhằm giảm các triệu chứng buồn nôn, tiết nước bọt và giảm các triệu chứng ngộ độc. Còn trong nửa cuối của thai kỳ nên hạn chế dùng gừng vì nó có thể làm tăng huyết áp gây nguy hiểm cho thai phụ. Và trong thời kỳ cho con bú cũng không nên ăn gừng vì nó có thể được bài tiết vào sữa mẹ gây ra chứng mất ngủ ở trẻ em.
Người thân nhiệt cao: Trong trường hợp này không nên ăn gừng vì nó sẽ làm thân nhiệt tăng cao hơn. Tuy nhiên, nếu bị cúm virus mà không sốt hay sốt nhẹ vẫn có thể dùng gừng, nhưng khi đã có dấu hiệu sốt cao và có nguy cơ tổn thương các mạch máu và xuất huyết thì tuyệt đối không được dùng gừng.

Tương tác của thuốc và gừng: Trong thực tế gừng có thể phù hợp và kết hợp được với nhiều loại thuốc. Nhưng cũng nên cẩn trọng hơn khi dùng thuốc phải có khuyến cáo của bác sĩ. Điều không nên làm là kết hợp gừng với những loại thuốc giảm huyết áp, chống loạn nhịp tim và thuốc kích thích cơ tim. Vì hoạt tính của những loại thuốc này sẽ tăng lên khi có sự kết hợp với gừng và gây ra tình trạng công thuốc, quá liều. Ngoài ra, gừng cũng không được dùng với thuốc hạ đường huyết vì gừng sẽ làm giảm lượng đường trong máu của bạn, điều này đã được quy định riêng cho bệnh tiểu đường.

Theo Đông y, bạn dùng gừng không được gọt vỏ vì như vậy sẽ mất hết dược tính của gừng. Không được ăn gừng tươi đã bị dập hay mọc mầm vì gừng ở dạng này dễ sinh ra một loại độc tố cực mạnh, thay đổi tính chất của gừng dẫn tới hoại tử tế bào gan gây ung thư gan và thực quản. Hơn nữa, thời gian buổi tối cũng không được ăn gừng vì nó có thể ảnh hưởng xấu đến sinh lý và sức khỏe.

Hỗ trợ chữa bệnh ung thư bằng Mallotufs

Thuốc hỗ trợ chua benh ung thu và các Khối U lành tính

Mới đây, các nhà khoa học Việt Nam đã tiến hành sàng lọc trên 500 mẫu thực vật tại Việt Nam với mục đích tìm ra các hoạt chất kháng lại yếu tố NF-kB - nguyên nhân gây ra nhiều bệnh lý như Bệnh ung thư, u nang, thần kinh, bệnh thoái hoá khớp …. Kết quả là đã phát hiện và chiết xuất được hoạt chất malloapelta B từ cây Bùm bụp (Mallotus apelta).

NF-kB là gì? Các nghiên cứu cho thấy yếu tố NF-kB đóng vai trò chủ chốt trong việc điều hòa đáp ứng miễn dịch với nhiễm trùng. Quá trình điều hòa bất hợp lý của NF-kB là nguyên nhân gây nên nhiều bệnh lý khác nhau như ung thư,unang, thoái hóa thần kinh, viêm khớp, hen phế quản…

NF-kB cũng đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong quá trình phát triển bình thường của phôi thai. Rối loạn điều hòa NF-kB là nguyên nhân của nhiều dị tật bẩm sinh. 

NF-kB là một yếu tố điều hòa các gen kiểm soát sự tăng sinh và khả năng sống của tế bào. Hoạt hóa NF-kB khiến cho tế bào tăng sinh và không bị chết theo chương trình, do đó hoạt hóa NF-kB là một yếu tố quan trọng thúc đẩy tế bào Ung thư nhân lên và phát triển. 

Trong khuôn khổ chương trình hợp tác nghiên cứu khoa học công nghệ giữa Viện Hóa học các Hợp chất Thiên nhiên (Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam) với Viện Khoa học và Công nghệ Sinh học Hàn Quốc, các nhà khoa học Việt Nam đã phát hiện và chiết xuất được hoạt chất malloapelta B từ cây Bùm bụp (Mallotus apelta), hoạt chất này ức chế mạnh yếu tố NF-kB nên có tác dụng phòng và hỗ trợ điều trị ung thư hiệu quả thông qua cơ chế ngăn chặn ung thư từ gốc và có tác dụng tiêu diệt một số dòng ung thư ở người. Công trình nghiên cứu này đã được Cục Sở hữu Trí tuệ Việt Nam cấp bằng độc quyền sáng chế.

Theo GS.TS Đỗ Tất Lợi thì cây Bùm bụp có tác dụng tiêu viêm, cầm máu. Dùng chữa viêm gan mãn tính, sưng gan lá lách, viêm tai giữa, mụn nhọt, sa tử cung, sa trực tràng, huyết trắng, phù thũng khi có thai, viêm ruột và các bệnh đường tiêu hóa. Malloapelta B là hợp chất mới, lần đầu tiên được phân lập từ thiên nhiên và có hàm lượng khá cao trong cây bùm bụp của VN. Các kết quả nghiên cứu cho thấy hợp chất này có tác dụng phòng và hỗ trợ điều trị ung thư hiệu quả thông qua cơ chế ngăn chặn Bệnh ung thư từ gốc và có tác dụng tiêu diệt một số dòng tế bào Ung thư ở người. 

Sau khi được Cục Sở hữu trí tuệ cấp bằng độc quyền sáng chế đối với công trình này, Viện Hóa học các hợp chất thiên nhiên đã phối hợp với Công ty cổ phần dược phẩm Đông Dương tiến hành sản xuất thuốc Mallotus từ lá cây bùm bụp. Sản phẩm Mallotus đã được Bộ Y tế cấp phép lưu hành. Ngoài tác dụng phòng và hỗ trợ điều trị ung thư, Malotuts còn có tác dụng tốt đối với các bệnh viêm gan mãn tính, các bệnh về đường tiêu hóa.

Mallotuts được bào chế từ dịch chiết toàn phần của cây bùm bụp có chứa hoạt chất malloapelta B và cao nhân sâm, có tác dụng:
  -  Ngăn ngừa không cho tế bào lành chuyển thành tế bào Ung thư, tăng cường hệ miễn dịch của cơ thể.
  -  Là sản phẩm được nghiên cứu theo Nghị định thư giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Hàn Quốc.
  -  Được quản lý chất lượng theo phương pháp Fingerprint (đề tài nghiên cứu giữa Chính phủ Việt Nam và Vương quốc Bỉ). Được bào chế hoàn toàn từ thảo dược nên sử dụng an toàn và có thể dùng dài ngày được.

Mallotuts được dùng trong những trường hợp nào?
  -  Các trường hợp có nguy cơ bị Ung thư cao như viêm loét dạ dày mạn tính, viêm loét bờ cong nhỏ, u nang, U sơ tuyến tiền liệt , U sơ cổ tử cung ..
  -  U nang buồng trứng
  -  Ung thu gan ,Ung thư thận, Ung thư đại tràng, Ung thư cổ tử cung, Ung thư vòm họng, Ung thư tiền liệt tuyến… và Các khối U không rõ nguyên nhân.
  -  Bệnh nhân đang điều trị ung thư bằng hóa chất và tia xạ.
  -  Những người sống trong môi trường ô nhiễm; nhiều khói bụi, tiếp xúc với các hóa chất độc hại, tia xạ, tia tử ngoại, uống nhiều rượu bia, hút nhiều thuốc lá…
  -  Viêm gan mạn tính, các bệnh lý đường tiêu hóa...
  -  Dùng tốt cho những bệnh nhân bị viêm loét miệng, khô họng, buồn nôn... do trong quá trình điều trị ung thư (tia xạ..) hoặc do các nguyên nhân khác trong đường miệng gây chán ăn, khó nuốt.
  -  Hỗ trợ phòng ngừa phù thũng khi mang thai và hỗ trợ phòng ngừa các dị tật bẩm sinh.Cách dùng đúng
  -  Hỗ trợ điều trị Ung thư: có thể dùng 4 – 6 gói/ngày.
  -  Phòng bệnh Ung thư, viêm gan mạn tính và các bệnh đường tiêu hóa...): 2 – 4 gói/ngày.
  -  Mỗi lần uống 1 gói, pha vào 100-150ml nước lọc. Có thể pha với nước nóng hoặc lạnh.
  -  Nên sử dụng sản phẩm liên tục ít nhất là 3 tháng/đợt.


Có thể sản xuất thịt bò nhân tạo từ tế bào gốc

Giáo sư Mark Post cho biết, ông tạo ra chúng từ các tế bào gốc trong ống nghiệm tại phòng thí nghiệm của ông ở Đại học Maastricht, Hà Lan.

Dự án này của ông để chứng minh thịt tạo ra trong phòng thí nghiệm có thể trở thành hiện thực và nó sẽ là giải pháp bền vững trong tương lai để sản xuất thịt bò, thịt gà và thịt lợn, từ đó cắt giảm hàng tỷ tấn khí thải nhà kính từ ngành chăn nuôi.

Thịt nhân tạo còn thích hợp với người ăn chay vì nó sẽ làm giảm đáng kể việc giết hại động vật. Nhưng sự thành công hay thất bại của sản phẩm này còn phụ thuộc nhiều vào sự phản ứng từ các quán ăn, dự kiến sự kiện này sẽ được công bố ngày 5/8 tới đây.

Đến nay, người duy nhất ăn thịt nhân tạo là nhà báo người Nga với một mẫu thịt lợn trong chuyến thăm phòng thí nghiệm của giáo sư Post.

Mỗi miếng thịt nhân tạo tạo thành từ khoảng 3.000 dải mô cơ, có chiều dài 3 cm và rộng 1,5 cm. Mỗi dải được bắt đầu từ te bao goc của bò sau đó phát triển thành một dải các tế bào cơ khi nuôi dưỡng trong môi trường tổng hợp chứa nhiều chất dinh dưỡng quan trọng. Các dải tế bào trải qua một thời gian sẽ trở nên dẻo dai như cơ thực sự.

Thịt nhân tạo không hấp dẫn như một miếng thịt bò tươi, nhưng theo giáo sư Post thì nó có thể đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về thịt và dự kiến ​​sẽ tăng gấp đôi vào năm 2050.

Phát biểu tại một hội nghị vào năm ngoái, ông nói rằng ông đã sản xuất được thịt sợi gần giống với thịt bò thật, nó có màu hồng và ông hy vọng sẽ biến thành hiện thực khi làm chiếc bánh burger đầu tiên. Ước tính, chiếc burger đầu tiên sẽ có giá sản xuất khoảng 220.000 bảng Anh (gần 7 tỷ đồng), nó sẽ ra mắt mắt công vào tháng sau. Dự kiến một năm sau, nó sẽ đi vào sản xuất rộng rãi. Chi phí đắt đỏ có thể được cắt giảm đáng kể bởi quá trình công nghiệp hóa.

Tài trợ cho dự án của giáo sư Post là một doanh nhân giấu tên và doanh nhân này sẽ xuất hiện tại sự kiện ra mắt của dự án này.