December 13, 2013

Cách phát hiện bệnh ung thư tế bào gan sớm

Để biết được nguy cơ mắc bệnh xơ gan và ung thư gan dùng phương pháp xác định các đột biến tại vùng BCP/PC của virus viêm gan B ở bệnh nhân viêm gan B từ đó có hướng điều trị ung thư gan kịp thời.

Theo số liệu thống kê, hiện trên thế giới có trên 2 tỷ người bị nhiễm virus viêm gan B (HBV), trong đó có trên 350 triệu người bị viêm gan B mạn. Viêm gan B mạn có thể dẫn tới các biến chứng như xơ gan hoặc ung thư biểu mô tế bào gan (HCC). Ung thư gan nguyên phát là nguyên nhân thứ ba gây tử vong trên thế giới do ung thư và ung thư biểu mô tế bào gan chiếm 85-90% trong số những ung thư gan này.

Một số nghiên cứu mới nhất của Thế giới công bố trong các năm 2011-2013 về các đột biến tại vùng BCP/PC đã chỉ ra rằng việc xác định số lượng, vị trí và sự kết hợp các đột biến này ở những bệnh nhân viêm gan vi rút mạn tính có ý rất nghĩa quan trọng trong việc đánh giá nguy cơ phát triển thành xơ gan và ung thư tế bào gan trong tương lai 5-10 năm tiếp theo.

Nếu lượng vi rút viêm gan B (HBV DNA) luôn ở mức >106 copies/mL thì sau khoảng 10 năm sẽ có 36,2% số bệnh nhân tiến triển thành xơ gan. Nếu bệnh nhân được điều trị và số lượng virus HBV DNA giảm xuống dưới ngưỡng phát hiện thì chỉ còn 4,5% số bệnh nhân bị xơ gan.

Tương tự, nếu HBV DNA luôn > 106copies/mL thì sau khoảng 10 năm sẽ có 15% số bệnh nhân tiến triển thành ung thư biểu mô tế bào gan. Nếu bệnh nhân được điều trị và số lượng virus HBV DNA giảm xuống dưới ngưỡng phát hiện thì chỉ còn 1,3% số bệnh nhân tiến triển thành ung thư biểu mô tế bào gan.

13 vị trí đột biến trên vùng BCP/PC của vi rút viêm gan B có liên quan với nguy cơ xơ gan và HCC được xác định bang kỹ thuật giải trình tự trực tiếp

Tại Việt Nam, theo kết quả nghiên cứu “Các đột biến trên vùng BCP/CP của vi rút viêm gan B ở bệnh nhân viêm gan B mạn có liên quan đến xơ gan và ung thư biểu mô tế bào gan ở miền Bắc Việt Nam” trên 72 bệnh nhân sống tại miền Bắc trong hơn 1 năm (12/2010 - 6/2013) có HbsAg dương tính với lượng vi rút HBV DNA >105/mL của PGS Nguyễn Nghiêm Luật, chuyên gia đầu ngành về hóa sinh, cùng cộng sự thực hiện nghiên cứu cho thấy tỉ lệ đột biến gen lên tới gần 85%. Nghiên cứu này đã ứng dụng kỹ thuật giải trình tự gen trực tiếp và được báo cáo tại Hội nghị Khoa học Medlatec 2013 diễn ra tại Hà Nội ngày 12/12.

Như vậy, bên cạnh các yếu tố khác như người trên 35 tuổi dễ mắc bệnh hơn, ở nam giới nhiều hơn nữ giới, nhiễm aflatoxin B1, nghiện rượu, đái tháo đường, bệnh gan nhiễm mỡ không do alcol, nhiễm sắc tố sắt (hemochromatosis), tiền sử gia đình về ung thư biểu mô tế bào gan, kết quả xét nghiệm gen đột biến này rất có ý nghĩa trong việc ngăn chặn và phòng ngừa sớm bệnh ung thư gan và xơ gan ở người viêm gan B.

Rượu gây bệnh hiểm nghèo, đặc biệt bệnh ung thư gan

Khoa học đã chứng minh uống nhiều rượu, bia có thể gây ra các nguy cơ tiềm ẩn mắc các chứng bệnh hiểm nghèo cho cơ thể như:

-  Bệnh xơ gan
-  Bệnh ung thư trong đó phổ biến là ung thư gan, ung thư ruột, ung thư vú (ở cả nam lẫn nữ), ung thư miệng, ung thư hầu, ung thư thực quản, ung thư thanh quản.
-  Tiểu đường
-  Vô sinh do giảm chất lượng tinh trùng ở nam giới.

Ngoài ra, việc sử dụng rượu, bia thường xuyên còn là nguyên nhân gây ra các bệnh khác như gouts, viêm tụy, tăng men gan,….

Cơ chế gây bệnh hiểm nghèo do rượu, bia :

Thông thường, lượng rượu, bia uống vào cơ thể khoảng 2-8% được thải ra ngoài qua đường nước tiểu, mồ hôi hoặc hơi thở; 92-98% còn lại được chuyển hóa hoàn toàn tại gan và thận. Ở người uống rượu vừa phải thì phần lớn rượu được chuyển hóa tại gan và thận theo hai giai đoạn.

Trong giai đoạn 1, rượu được chuyển hóa thành Acetaldehyde dưới tác động của ba hệ thống men: (1) Alcoholdehydrogenase (coenzyme NAD) nằm trong bào tương; (2) hệ thống ôxy hóa rượu ở microsome (Microsomal Ethanol Oxidating System - MEOS) và (3) các men Catalase.

Trong giai đoạn 2, Acetaldehyde được hình thành, là một chất độc, sẽ được ôxy hóa để chuyển thành Acetate. Năng lực chuyển hóa của giai đoạn này chỉ có giới hạn và có sự tham gia của ADH, một enzyme phụ thuộc NAD.

Ở những người phải sử dụng quá nhiều bia rượu, lượng Acetaldehyde được sản sinh với một mức quá lớn sẽ không được chuyển hóa hết và gắn vào màng tế bào gây tổn thương tế bào thông qua các cơ chế gây độc, gây viêm và miễn dịch với hậu quả là quá trình tạo xơ tế bào, gây loạn chức năng tế bào, hình thành các tế bào ác tính. Một đặc điểm cực kỳ quan trọng là các phản ứng trong quá trình chuyển hóa rượu trong cơ thể sẽ giải phóng ra các gốc tự do hoạt động.

Các tế bào bị tổn thương theo thời gian dẫn đến xơ tế bào, chết tế bào hoặc hình thành các dạng bất thường của tế bào từ đó hình thành các bệnh và bệnh hiểm nghèo như ung thư, suy thận, viêm tụy, bệnh xơ gan, tim mạch, tiểu đường,….

Phân biệt GIẢI RƯỢU và GIẢI ĐỘC RƯỢU

Giải rượu thông thường giúp làm giảm nhẹ những triệu chứng khó chịu do ngộ độc rượu gây ra cho cơ thể bằng cách làm chậm lại quá trình chuyển hóa rượu thành chất gây độc, nhờ vậy làm giảm tại chỗ và tức thời các triệu chứng khó chịu do ngộ độc rượu. Tuy nhiên những sát thủ lâu dài của cơ thể vẫn còn đó. Các sản phẩm chuyển hóa và giáng hóa của ethanol (rượu, bia) trong quá trình này là Acetaldehyde và gốc tự do vẫn còn tích tụ và vẫn tồn tại trong cơ thể lâu dài.

Giải pháp?

Để hạn chế sự hình thành các tế bào bất thường, người thường xuyên sử dụng rượu bia cần có một giải pháp tổng thể là giải độc rượu, phục hồi tế bào gan.

Giải pháp tổng thể giải độc rượu, phục hồi tế bào gan không chỉ giải độc tức thời giúp cho cơ thể đào thải tối đa lượng Acetaldehyde tồn đọng sau mỗi lần sử dụng rượu, bia từ đó giúp tỉnh táo, không đau đầu, mệt mỏi. Ngoài ra đây là giải pháp tối ưu bảo vệ cơ thể lâu dài bằng cách phục hồi tổn thương tế bào và ngăn ngừa các bệnh hình thành do rượu.

Đối với người tiêu dùng, chúng ta nên tìm hiểu kỹ thông tin khi quyết định sử dụng một sản phẩm chăm sóc sức khỏe để có được biện pháp tốt nhất bảo vệ cơ thể, giữ gìn sức khỏe đảm bảo một cuộc sống có chất lượng.

December 2, 2013

Độc tính trên tim của hóa chất chữa ung thư gan

Hầu hết các hóa chất chống ung thư đều có độc tính cao đối với nhiều hệ thống cơ quan trong cơ thể, trong đó có quả tim.

Một số loại hóa chất còn có thể gây tổn thương cơ tim dẫn đến rối loạn nhịp tim hoặc suy tim. Hầu hết các hóa chất cũng như tia xạ đều gây tổn thương tim bằng cách tạo ra các gốc ôxy hóa tự do.

Hóa chất chữa ung thư gan gây độc cho tim.

Mặc dù có nhiều loại hóa chất được ghi nhận có thể gây ra các tổn thương cơ tim, nhưng doxorubicin là thuốc có nguy cơ lớn nhất.

Các dẫn xuất khác trong nhóm anthracyclin (như daunorubicin, epirubicin, idarubicin) và một số hóa chất như cyclophosphamid, arsenic trioxid, denileukin diftitox, gemtuzumab ozogamicin, melphalan, octreotid, oprevelkin, paclitaxel, tretinoin, fluorouracil và mitoxantron đều được ghi nhận có thể gây ra các rối loạn nhịp tim hoặc suy tim.

Triệu chứng

Các biểu hiện thường gặp của nhiễm độc tim do hóa chất chống ung thư mà người bệnh có thể cảm nhận được là mệt mỏi, khó thở khi gắng sức, khó thở tăng lên khi nằm, trống ngực đập mạnh, phù chân, đi tiểu ít.

Thăm khám lâm sàng có thể thấy rối loạn nhịp tim, nghe tim có các tiếng thổi và một số biểu hiện của suy tim như nhịp tim nhanh, gan to, tĩnh mạch cổ nổi. Để có thể phát hiện sớm các tổn thương tim hóa trị liệu chống ung thư, cần theo dõi người bệnh chặt chẽ sau khi dùng thuốc, đặc biệt lưu ý sự xuất hiện của các rối loạn nhịp tim hoặc các dấu hiệu của suy tim.

Dự phòng

Một số biện pháp có thể giúp giảm nguy cơ nhiễm độc tim do các hóa chất chống ung thư như thay đổi liều dùng, cách dùng của thuốc, sử dụng các thuốc ít độc tính và dự phòng bằng thuốc.

Thay đổi liều dùng
Để giảm thiểu nguy cơ nhiễm độc cơ tim, các hóa chất cần được sử dụng với tích lũy liều thấp nhất, đặc biệt là với nhóm anthracyclin. Các nghiên cứu cho thấy, nếu dùng doxorubicin với tổng liều dưới 550mg/m2 da, nguy cơ nhiễm độc cơ tim chỉ là 1%.

Tuy nhiên, khi tích lũy liều tăng lên 560-1155mg/m2 da, nguy cơ nhiễm độc tim tăng lên tới 30%. Có sự khác biệt đáng kể giữa các cá thể về khả năng dung nạp doxorubicin, một số người có thể dùng liều rất cao mà không gây các bất thường ở tim, nhưng một số người dùng liều thấp (tổng liều dưới 550mg/m2) cũng gặp phải các tổn thương tim.

Thay đổi phương pháp dùng thuốc

Có một số bằng chứng cho thấy, phương pháp dùng thuốc có thể ảnh hưởng đến khả năng nhiễm độc tim của thuốc. Truyền thuốc quá nhanh làm tăng nhanh nồng độ thuốc trong máu có thể dẫn đến tăng nguy cơ nhiễm độc tim.

Cùng một lượng thuốc, nếu được truyền chậm trong một thời gian kéo dài có thể giúp giảm nguy cơ này so với việc truyền nhanh trong một thời gian ngắn. Ngoài ra, nếu thuốc được sử dụng chia từng liều nhỏ với khoảng cách tương đối gần giữa các liều cũng giảm nguy cơ nhiễm độc tim so với việc dùng các liều cao với khoảng cách giữa các liều kéo dài.

Sử dụng các dẫn xuất anthracyclin liposomal ít độc tính

Nguy cơ nhiễm độc tim do anthracyclin có thể được giảm thiểu bằng cách sử dụng các dẫn xuất anthracyclin liposomal như liposomal doxorubicin, pegylated liposomal doxorubicin. Trong các dẫn xuất này, anthracyclin được gói bọc trong các giọt mỡ nhỏ, nhờ đó sẽ lưu lại lâu hơn trong cơ thể và được phóng thích từ từ vào trong máu, không làm tăng cao nồng độ thuốc trong máu.

Các nghiên cứu gần đây chỉ ra rằng, dùng công thức liposomal doxorubicin giúp giảm rõ rệt nguy cơ nhiễm độc tim so với khi dùng công thức doxorubicin thông thường nhưng hiệu quả chống ung thư tương đương nhau.

Dùng thuốc dự phòng dexrazoxan

Dexrazoxan được chứng minh là có thể giúp giảm nguy cơ nhiễm độc tim của doxorubicin bằng cách ngăn chặn sự tạo thành các gốc ôxy hóa tự do. Gốc ôxy hóa tự do là các phân tử kém bền vững, được tạo ra trong cơ thể từ các phản ứng ôxy hóa hoặc do sự tiếp xúc của cơ thể với một số yếu tố môi trường như khói thuốc lá, tia xạ, hóa chất.

Điều trị

Cũng như với mọi tác dụng phụ khác của thuốc, ngưng hoặc giảm liều của thuốc gây độc cho tim là biện pháp đầu tiên và quan trọng nhất, cần được làm ngay khi có thể. Tình trạng suy tim và rối loạn nhịp tim do hóa trị liệu chống ung thư cũng được điều trị tương tự như do các nguyên nhân khác.

Các thuốc chính được sử dụng trong điều trị suy tim là thuốc lợi tiểu (như furosemid, veospiron), thuốc trợ tim (như digoxin), thuốc ức chế men chuyển (như benazepril, enalapril và fosinopril) và thuốc chẹn bêta giao cảm (như metoprolol, propranolol và atenolol). Tùy thuộc vào loại rối loạn nhịp tim gặp trên điện tâm đồ, một số thuốc điều trị loạn nhịp tim có thể được sử dụng như amiodaron, mexiletil, propafenon...

Câu chuyện bi kịch về "người mẹ bệnh nuôi các con ung thư máu"

Chán cảnh vợ con bệnh tật, nợ nần chồng chất, chồng bỏ nhà ra đi, gần chục năm nay người phụ nữ này đã lặng lẽ, nuốt cay đắng, một mình đưa các con đi bệnh viện. Để rồi một trong ba đứa con đã không thể tiếp tục sự sống, hai đứa con còn lại cùng người mẹ đều mang bệnh trọng, ngày qua ngày vật vờ trong ranh giới giữa sự sống và cái chết. Đó là hoàn cảnh vô cùng bi đát của chị Ngô Thị Hồng, trú tại thôn 10, xã Thạch Hòa, huyện Thạch Thất, TP.Hà Nội.

Chồng bỏ, con mất, còn lại nỗi đau bệnh tật

Sinh hai đứa con, không may cả hai đều có gene máu trắng, bé thứ hai bị nặng, chạy chữa 4-5 năm trời, tiêu tốn khá nhiều tiền của nhưng cuối cùng vẫn không thể cứu sống. Nỗi đau mất con khiến vợ chồng chị Hồng suy sụp đi một thời gian, nghĩ đến tương lai phía trước, anh chị quyết định sinh thêm bé thứ ba là Hoàng Công Tiến. Bất hạnh lại ập đến khi phát hiện bé Tiến cũng mắc bệnh máu trắng lúc mới 6 tháng tuổi. Giọt máu thứ 3 của vợ chồng chị Hồng đã trở thành gánh nặng vô cùng lớn, đẩy cuộc sống gia đình vào vực thẳm.

Chán cảnh con cái bệnh tật, nợ nần ngập cửa, chồng là anh Hoàng Công Hà đã bỏ nhà đi cách đây chục năm, không quay trở về. Chị Hồng không còn cách nào khác đành cắn răng chịu khổ, một mình chăm 2 đứa con kém may mắn.

Hai mẹ con chị Ngô Thị Hồng

Gạt nước mắt, chị Hồng kể: “Con cái bệnh tật, mất đi một đứa đã đau lòng lắm rồi, sinh thêm đứa nữa cũng chẳng được như người ta, dù chỉ một chút thôi cũng không được. Ngày nào nhìn con tôi cũng khóc, chục năm rồi chỉ có mẹ con tôi trong ngôi nhà cấp 4 này. Và sẽ không thể kể hết những nỗi khổ mà tôi đang gánh chịu”.

Đau đớn nhìn thân xác con bị hành hạ

Bé Tiến bây giờ đã 12 tuổi, căn bệnh máu trắng đã đeo bám em suốt 11 năm qua kể từ ngày phát hiện bệnh. Cơ thể em bị biến dạng đi trông thấy, đầu to, bụng phình trướng ra, chân tay teo tóp lại. Căn bệnh quái ác không chỉ vắt kiệt sức lực của Tiến mà còn gây ra biến dạng xương mặt, xương chân tay, xương hông. “Một thời gian cháu nó bị biến dạng xương tay chân, động đâu gãy đấy, cứ bó bột xong lại gãy, vừa rồi đi hội chẩn, các bác sĩ cho biết cháu bị biến dạng xương hông. Nó đau nên khóc suốt, thương con mà chỉ biết ôm con khóc thôi, biết làm sao được” - chị Hồng tâm sự.

Trung bình nửa tháng chị Hồng lại đưa con lên Bệnh viện Nhi Trung ương chữa trị. Chi phí mỗi lần đi mất ít nhất 2 triệu, trong vòng 11 năm nay, chị đã phải vay mượn hơn 100 triệu để lo cho con. Vay nhiều mà không có trả, không ít lần ngân hàng xuống đòi lãi, người quen đến đòi tiền, chị khất nợ một vài lần không được, có lúc phải chạy trốn sang nhà hàng xóm.

Bởi thế mà hai tháng nay, chị không thể đưa Tiến lên viện theo lịch hẹn của bác sĩ. Chị nói trong nấc nghẹn: “Giờ tôi chẳng thể vay nổi tiền để đưa con đi viện nữa. Bác sĩ bảo gia đình chuẩn bị tiền để ghép tủy cho con nhưng thử hỏi giờ tôi kiếm đâu ra 200 triệu để ghép. Tôi đành phải để con ở nhà, tôi đã cố hết sức rồi, sinh con ra để con như thế này, tôi cũng đau lòng lắm chứ”.

Bất hạnh của người phụ nữ đang ở trước mắt chúng tôi càng lúc càng quá sức chịu đựng khi chị cho biết thêm chị đang mang trên mình hai căn bệnh: U nang cổ tử cung và ung thư vòm họng. Mấy năm trời đưa con đi viện, người mẹ ấy đã âm thầm chịu đựng sự giày xéo của những căn bệnh hiểm nghèo. Khi được hỏi tại sao chị không đi chữa trị, chị nuốt nước bọt rồi nói: “Thì bây giờ tất cả vì con nên kệ, chữa cho con được như thế nào thì tốt thế đó, giờ chữa cho mẹ nữa thì tiền đâu ra. Cô xem trong nhà còn có gì đáng giá nữa đâu. Mỗi lần đi viện, mọi người hỏi - hai mẹ con đi như thế này, bỏ nhà như thế không sợ trộm cắp à, thì tôi đều phải bảo nhà có cái gì nữa đâu mà mất, có vài cái nồi, cái xoong, lấy được thì lấy”.

Cảnh hai mẹ con vò võ trong nhà, cả hai đều ôm bệnh, tưởng chừng như không còn có một tia sáng nào có thể hé mở. Song chị Hồng vẫn còn có một niềm tin khi nhắc đến đứa con gái đầu là em Hoàng Thị Yến. “Con bé là tất cả những gì tôi hy vọng, nó khổ từ bé, hai đứa em bị bệnh đều được nó chăm sóc, giờ nó quyết tâm học trung cấp y, tôi vui lắm. Nhưng tôi chỉ buồn là tôi không nuôi được nó học”, - nói đến đây, chị Hồng nghẹn ngào cúi mặt xuống.

Yến năm nay 22 tuổi, vì thương mẹ, em đã học trung cấp y với mong muốn có thể chữa bệnh được cho em và mẹ. Song vì hoàn cảnh cơ cực, việc ăn ở học tập của em gặp rất nhiều khó khăn, mỗi ngày em chỉ dám tiêu 6 nghìn đồng. Hoàn cảnh éo le của mẹ con chị Hồng dường như đã không còn lối thoát.


Lương y sở hữu bài thuốc trị bệnh gan độc đáo ở Hà Giang

Theo Gia đình và Xã hội đã thu thập được - tại nơi miền sơn cước với xung quanh là bốn bề núi rừng, mỗi khi có người bị bệnh gan là họ lại tìm đến ông, hàng trăm người từng gần kề với cái chết được ông cứu sống và trở về với cuộc sống thường ngày. Ông là Hoàng Ngọc Cảnh ở thôn Tân Trang, xã Tân trịnh, huyện Quang Bình, tỉnh Hà Giang.

Ông Hoàng Ngọc Cảnh.


Hành trình vái tứ phương tìm thầy trị bệnh "nan y"

Những ngày rong ruổi nơi địa đầu tổ quốc, chúng tôi tình cờ nghe được câu chuyện về vị lương y sở hữu bài thuoc tri benh gan nổi tiếng nhất Hà Giang. Chúng tìm đến ông Cảnh vào một buổi chiều ngoài trời mưa rả rích. Trong căn nhà nhỏ nằm hun hút trong khe núi, ông Cảnh thanh thoắt rót nước lá rừng mời khách rồi kể về chuyện nghề, chuyện đời. Khi nhắc đến con đường đưa ông đến nghề làm thầy lang, ông bảo đó là cái số trời quyết, nếu không vì ngày trước ông là bệnh nhân của căn bệnh nan y này thì giờ ông đã không được làm cái nghề phúc đức như bây giờ.

Theo như ông Cảnh, thì năm 1985 ông mắc bệnh nặng, khắp người da vàng người phù lên như trái mọng nước, đến việc đi lại cũng khó khăn. Đi bói thì các thầy bảo, ngày xưa đi đốt nương không tránh mộ của người chết nên giờ hồn họ đến tìm, một số thầy khác lại cho rằng năm đó là năm gặp hạn nên cần dùng dê để giải, thế là gia đình lại đi tìm thầy về cúng suốt 3 ngày 2 đêm mà bệnh tình vẫn không thuyên giảm. Đi đến bệnh viện khám thì các bác sĩ nói là bị sơ gan cổ trướng giai đoạn cuối và khuyên về nhà chuẩn bị hậu sự…".

Trong nỗi tuyệt vọng khi ấy, cứ ai rỉ vào tai ông có người chữa được bệnh gan bằng thuốc nam là ông lại tìm đến họ. Khi đó, nghe danh ở xã Yên Thuận (Hàm Yên - Tuyên Quang) có một người thầy thuốc tài ba chữa bệnh gan cực giỏi, với hy vọng chữa được căn bệnh nan y của mình ông lại cất công khăn gói ra đi với hy vọng sẽ tìm được nguồn ánh sáng mới. Lần này "thần may mắn" đã gõ cửa nhà ông khi gặp được một vị thầy thuốc bậc thầy trong chữa trị các bệnh về gan, khi ấy người đó yêu cầu muốn trị được bệnh này phải ở lại đó vài tháng để được trực tiếp quan sát tình trạng sức khỏe để chọn thuốc cho phù hợp, đặc biệt phải kiêng ăn đồ nóng như thịt gà, thịt trâu, thịt bò, rau bí, rượu, bia… Sau hai tháng ăn kiêng chữa trị, bệnh ông khỏi hẳn. Thấy ông Cảnh là người thật thà người thầy thuốc tên Bàn Văn Tráp đã nhận ông Cảnh làm con nuôi và truyền dạy bài thuốc chữa trị bệnh gan bằng lá cây rừng đặc biệt hiệu quả này.

Xin bệnh nhân được chữa bệnh

Sau khi căn bệnh vô phương cứu chữa của ông khỏi hẳn và trở về với cuộc sống đời thường, khi ấy ít ai biết và tin ông có thể trị được các bệnh về gan, đặc biệt là sơ gan cổ trướng. Hỏi về bệnh nhân đầu tiên, ông cho biết đó là một người phụ nữ tên Thơm ở xã bên, người này cũng đã từng rơi vào cảnh như mình trước đó, đi khắp nơi chữa trị mà vẫn không khỏi. Nghe vậy, ông Cảnh đã phải đến tận nơi đề nghị được chữa trị, ngày đầu gia đình bệnh nhân không tin tưởng nhưng sau nhiều lần năn nỉ mới được chấp thuận, chỉ sau vài tuần được ông sắc thuốc chị Thơm đã hoàn toàn bình phục. Từ đó trở đi cái tên Cảnh Huế (người Tày thường gọi tên bố gắn với tên con trai cả - PV) đã được người dân khắp trong và ngoài xã lân cận biết đến với biệt tài trị bệnh gan giỏi, lấy y đức làm trọng.

Cũng sau năm ấy, cả làng ông bỗng nhiên mắc căn bệnh lạ từ đầu làng đến cuối xóm một không khí ảm đạm bao trùm lên ngôi làng vốn dĩ bình yên bỗng trở nên u ám. Theo ông Cảnh, lúc ấy sắc mặt ai nấy đều vàng, đi xét nghiệm thì các bác sĩ đều kết luận là viêm gan A, thậm chí còn có một số tin đồn cho rằng do đường hóa học khi đó nhập khẩu bị nhiễm độc nên gây ra bệnh, lại có người cho rằng ngôi làng bị "ma ám" khiến nhiều người vô cùng hoang mang đi mời thầy cúng để hóa giải. Khi đó ông Cảnh được biết đến là người từng chữa được bệnh gan bằng cây lá rừng rất hiệu nghiệm, nên nhiều người trong làng đã tìm đến nhờ ông chữa trị. Quả nhiên bài thuốc bí truyền của người thầy thuốc luôn đặt y đức lên trên hết ấy đã giúp cho nhiều người tai qua nạn khỏi trở về với không khí vui vẻ rộn ràng như xưa, cũng kể từ đó tiếng tăm của ông lại càng được nhiều người biết và tìm đến.

Anh Hoàng Hoàng Văn Huế dẫn PV đi xem cây thuốc.


Khi chúng tôi hỏi ông có thể chữa được những loại bệnh gan nào, ông Cảnh cho biết: "Bình thường là viêm gan A, sơ gan cổ trướng và gan lành tính. Thuốc có thể trị bệnh này là 6 loại cây rừng cực kì hiếm, đặc biệt khó trồng nên phải đi hàng chục km đường rừng mới có thể hái được những loại cây này. Chủ yếu dùng thân và lá cây đem về cắt nhỏ sau đó sắc uống có tác dụng chữa bệnh gan rất hiệu nghiệm, đặc biệt dùng tươi thì tốt nhất. Ông Cảnh cho biết hiện tại muốn có được thuốc cứu người ông phải lên tận chóp núi mới tìm được những loại cây này, cho đến giờ cạnh nhà ông chỉ có một cây duy nhất vì những loại cây này chủ yếu ưa lạnh và mọc ở rừng đầu nguồn.

Anh Hoàng Văn Huế, con trai duy nhất trong gia đình được ông Cảnh truyền lại bài thuốc dẫn chúng tôi ra xem cây thuốc ở gần nhà bảo: "Cây thuốc thuốc này nhìn bề ngoài trông giống hoa hồng đỏ bình thường, mọc trên lưng chừng núi. Nhưng có tác dụng hỗ trợ rất tốt cho các loại cây kia trị bệnh". Anh Huế cho biết thêm, ngoài loại cây này trong bài thuốc còn có một số vị như cây xổ cổ thụ hàng trăm năm, cây dứa nước, lá dong rừng… sau khi điều trị khỏi hẳn sẽ có một thang thuốc cắt sau cùng để bệnh không tái phát.

Tâm đức của người thầy thuốc vì dân nghèo

Chúng tôi tìm gặp chị Nguyễn Thị Thơm, ở thôn Lủ, xã Tân Bắc. Chị bảo, nếu không có ông Cảnh thì chắc chị đã không ở đây tiếp chuyện được với chúng tôi. Chuyện là năm ấy người chị bỗng nhiên khó chịu, sức khỏe giảm sút đi khám ở bệnh viện bác sĩ kết luận là sơ gan cổ trướng, rất khó chữa, gia đình đi bốc thuốc khắp nơi mà bệnh tình vẫn không thuyên giảm, sau đó có một người đàn ông đã tự nguyện đến xin được chữa bệnh, khi ấy gia đình chị đồng ý nên chị mới có được như bây giờ. Gần đây nhất là ông lý Văn Chán (Bắc Quang - Hà Giang) và anh Lê văn Mạnh ở (Vĩnh Tường- Vĩnh Phúc) cũng bị bệnh gan được ông điều trị và hiện nay đã trở về cuộc sống bình thường.

Năm nay đã quá ngưỡng ngũ tuần, nhưng ngày ngày ông Cảnh vẫn lên rừng làm nương, trồng sắn lúa ngô để nuôi đàn gà lợn, ông bảo: "Giờ mình vẫn còn khỏe mạnh, nuôi được gà vịt để khi khách đến còn mổ đãi khách, đời người ngắn ngủi sống được bao nhiêu nên phải sống cho thoải mái". Khi hỏi về thành tích chữa bệnh ông suy tư: "Từ trước đến nay không nhớ đã bao nhiêu người đến nhờ ông chữa, có những nhà sau khi chữa khỏi họ thường xuyên đến thăm hỏi gia đình vào những ngày lễ tết, thậm chí có người còn xin được nhận làm con nuôi". Ông bảo mỗi một ca chữa khỏi, tiền công, tiền biếu đối với ông là sự tùy tâm, tuyệt nhiên không đòi hỏi gì nhiều, tùy theo hoàn cảnh mà lấy, có khi chỉ là thóc gạo, con lợn con… ông vẫn vui lòng.