March 27, 2013

Chữa bệnh xơ gan bằng cách tái sinh tế bào trong gan

Phương pháp mới trong chữa bệnh xơ gan???

Hiện nay bệnh gan mãn tính chỉ có thể được chữa khỏi bằng cách cấy ghép gan. Mới đây, các nhà nghiên cứu Anh đã phát hiện ra cách kích thích sản xuất các tế bào gan quan trọng bị mất do gan bị tấn công khi mắc bệnh xơ gan hoặc viêm gan mãn tính.

Nghiên cứu này được đăng trên Tạp Chí Nature Medicine đã làm sáng tỏ mạng lưới tín hiệu sinh hóa phức tạp giúp kích hoạt sự tái sinh của các tế bào trong gan - cơ quan chính của cơ thể để lọc các độc tố có hại từ máu.



Phát hiện ra cơ chế tái sinh tế bào của gan sẽ giúp chữa mô gan bị hư hỏng bằng phương pháp mới

Theo các nhà khoa học, mặc dù gan của con người có sức mạnh tái sinh tự nhiên, thay thế các tế bào gan bị hỏng. Nhưng, khi gan bị hư hại thì quá trình tái sinh tế bào thường tập trung vào tuyến mật gan nhiều hơn.

Tuy nhiên với sự phát hiện về cơ chế tái sinh hình thành tế bào gan mới này có thể là chìa khóa để tìm cách chữa mô gan bị hư hại, Luke Boulter thuộc Trung tâm Y học tái sinh tại Đại học Edinburgh của Hội đồng Nghiên cứu Y khoa, và là tác giả chính của nghiên cứu, cho biết.

Ở Anh hiện nay, bệnh gan là nguyên nhân gây tử vong cao nhất và gia tăng liên tục trong vòng 40 năm qua. Khoảng 16.000 người ở Anh đã chết vào năm cuối bệnh gan, và số lượng những người trên danh sách chờ đợi cho cấy ghép nội tạng đã tăng từ khoảng 300 người vào năm trước lên gần 500 người trong năm nay.

Gan nhiễm mỡ tiến triển thành bệnh xơ gan

Gan nhiễm mỡ hình thành và phát triển thành bệnh xơ gan như thế nào?

Gan nhiễm mỡ đã trở thành bệnh gan rất phổ biến ở một số nước. Bệnh có liên quan chặt chẽ với béo phì, tiểu đường và hội chứng chuyển hóa - một yếu tố nguy cơ chính đối với đau tim và đột quỵ. Điều may mắn là bệnh gan nhiễm mỡ không phải do tác hại của rượu, mà là dạng bệnh gan có thể đảo ngược. Trừ khi gan nhiễm mỡ tiến triển thành bệnh xơ gan, thì việc giảm cân có thể làm đảo ngược bệnh. Người bị bệnh gan nhiễm mỡ giảm được hơn 5% cân nặng sẽ có tỉ lệ tích tụ mỡ trong gan thấp hơn; người giảm hơn 9% cân nặng có thể đảo ngược được tình trạng bệnh gan của họ.

Ngoài việc giảm cân qua chế độ ăn và tập luyện, chế độ ăn có hàm lượng cao carbonhydrat nguyên chất (thực phẩm có chỉ số đường huyết cao) có liên quan với gan nhiễm mỡ nhiều hơn chế độ ăn có carbonhydrat phức tạp. Các carbonhydrat có chỉ số đường huyết cao bao gồm bánh mì, gạo, đường glucose, mật ong, xôi, bánh bột, bánh xốp nướng, ngô nướng, kê, khoai tây chiên, bánh rán, nho khô, dứa, chuối,... Các carbonhydrat phức tạp có thể bảo vệ chống lại bệnh gan nhiễm mỡ bao gồm bánh mì làm từ ngũ cốc nguyên hạt, mì, gạo lứt, rau, trái cây...

Magiê và các chất chống ôxy hóa như vitamin C, vitamin E đã được chứng minh là có tác dụng bảo vệ gan. Các vitamin và khoáng chất này có trong rau xanh, hạt bí ngô, ngũ cốc nguyên hạt và trái cây họ cam quýt.

Vì vậy, cách tốt nhất để bạn giảm tình trạng gan nhiễm mỡ là giảm cân, chế độ ăn uống ít chất béo, tránh các loại thực phẩm giàu tinh bột và kiểm soát chặt chẽ bệnh tiểu đường.

Nhiều người mắc bệnh xơ gan do thuốc điều trị quá đắt

Chi phí liên quan đến điều trị viêm gan C từ các xét nghiệm tải lượng vi rút, sinh thiết gan đến giá thuốc điều trị đều rất cao (khoảng 200 triệu/năm khiến nhiều người bệnh đành chấp nhận để bệnh xơ gan tiến triển mà không thể có tiền điều trị.


Một người bệnh, cả nhà phải gom tiền

ThS Nguyễn Ngọc Phúc, Trưởng khoa viêm gan, bệnh viện Nhiệt Đới TƯ cho biết, tại khoa viêm gan hiện đang điều trị cho rất nhiều bệnh nhân bị viêm gan C. Một điểm khá tương đồng ở các bệnh nhân này là vào viện khi đã ở giai đoạn muộn, có biến chứng xơ gan và ung thư gan. Ngoài ra có nhiều trường hợp phát hiện bệnh đã ở ngưỡng phải điều trị nhưng không thể đủ mạnh về kinh tế để theo đuổi liệu trình điều trị.

Chị Phạm Thị Minh (Gia Lâm, Hà Nội), một bệnh nhân đang được điều trị viêm gan C, cho biết: “Khi cả hai vợ chồng mình biết mắc viêm gan C và kết quả xét nghiệm, chẩn đoán cho thấy phải điều trị để ngăn sự tiến triển mạnh thành xơ gan, cả hai vợ chồng đều đã rất sốc bởi tiền thuốc chữa bệnh xơ gan quá lớn, khoảng 200 triệu/người/năm chưa kể thuốc gây nhiều biến chứng khiến người bệnh mệt mỏi, sụt cân… nên trở thành người phụ thuộc, không tự lo cho mình được miếng cơm cũng như sinh hoạt hàng ngày”.

Trước nguy cơ tiến triển nhanh thành xơ gan, ung thư gan và một bên là chi phí điều trị quá lớn, lúc đầu chị Minh “tặc lưỡi” sống chết là do ông trời. Nhưng khi nghĩ đến đứa con nhỏ mới hơn một tuổi, chị lại ngậm ngùi… “Cuối cùng, mình đã bàn với chồng họp gia đình hai bên nội ngoại, mỗi người hỗ trợ một chút để đảm bảo hai vợ chồng có thể điều trị hết lộ trình. Vì nếu tự lực điều trị, rất dễ phải bỏ ngang do gánh nặng tiền thuốc, khi đó lại trở nên công cốc, tiền thì mất mà bệnh khì không khỏi dứt điểm”, chị Minh nói.

Quyết tâm là thế, nhưng khi bước vào điều trị, nhiều lúc chị Minh cũng chùn chân. Bởi sau khi điều trị hai tháng với mỗi mũi tiêm một tuần chị đã sụt đến 14kg, người lúc nào cũng trong trạng thái mệt mỏi, chóng mặt, không ăn uống gì được và sau mỗi mũi tiêm lại bị sốt đến 2 - 3 ngày.

Theo BS Phúc, việc bệnh nhân này đã vượt qua được khó khăn về kinh tế để theo đuổi điều trị là quá may mắn so với nhiều bệnh nhân khác. Bởi tại khoa ông, rất nhiều bệnh nhân không có cơ hội điều trị, chấp nhận bệnh tiến triển thành xơ gan, ung thư gan. “Thuốc điều trị viêm gan C kết hợp với khả năng khỏi bệnh trên 80% thì chi phí rất đắt khoảng trên dưới 200 triệu (mỗi tuần tiêm 1 lần, kéo dài 6 tháng đến 1 năm). Thuốc gây rất nhiều biến chứng như: mệt mỏi, sốt kéo dài; suy giảm tế bào máu, suy thận, suy giáp… nên tổng chi phí điều trị cho người bệnh rất cao”, BS Lâm nói.

Nhiều khó khăn trong điều trị xơ gan

BS Phúc cho biết, ngoài chi phí điều trị rất đắt thì 100% bệnh nhân viêm gan C điều trị phải chịu tác dụng phụ khi dùng thuốc. Vì thế, việc chỉ định điều trị viêm gan C rất ngặt nghèo, phải xét nghiệm rất kỹ trước khi quyết định điều trị cho người bệnh, tránh để người bệnh phải bỏ số tiền quá lớn cũng như đối mặt với tác dụng phụ của thuốc.

Cùng quan điểm này, BS Cao Thị Thủy, Trung tâm hỗ trợ sáng kiến cộng đồng, cho biết: “Thường người bệnh viêm gan C khi có dấu hiệu xơ gan bắt đầu cần điều trị. Lúc này, nếu không điều trị kịp thời, xơ gan sẽ tiến triển nhanh, phá hủy gan. Tuy nhiên trên thực tế, 20% người nhiễm viêm gan C bệnh tự lui mà không phải điều trị. Khoảng 80% người bệnh viêm gan C chuyển sang gan mạn tính, nhưng không phải tất cả chuyển sang xơ gan. Cho nên, nếu điều trị 1 bệnh nhân mà khi chưa chuyển sang xơ gan thì người bệnh phải chịu chi phí điều trị sớm và tác dụng phụ của thuốc. Hơn nữa, thuốc sẽ có đáp ứng tốt hơn nếu người bệnh bắt đầu có xơ hóa gan. Vì thế, các bác sĩ luôn cân nhắc rất kỹ trước khi chỉ định cho bệnh nhân”.

“Còn với bệnh nhân đã đến ngưỡng phải điều trị, thì cái khó khăn nhất chính là chi phí cho giá thuốc. Tôi đã tham gia quản lý 400 bệnh nhân thì chỉ có 40 người được điều trị. Việc điều trị viêm gan C đòi hỏi bệnh nhân phải quyết tâm trong từng tuần, từng tháng và tuân thủ điều trị nghiêm ngặt nếu không kết quả điều trị không có giá trị, thậm chí bệnh tiến triển nặng hơn, bỏ điều trị có thể nguy hiểm tới tính mạng.

“Chúng tôi luôn phải tư vấn rất rõ cho bệnh nhân, rằng họ có quyết tâm điều trị rồi nhưng có nguồn lực kinh tế hay không. Vì thời gian điều trị cho bệnh viêm gan C tùy thuộc vào tuýp vi rút mà phải kéo dài chu trình điều trị là 24 tháng hoặc 48 tháng, kéo theo đó là số tiền điều trị không hề ít với ước tính khoảng 180 - 200 triệu/người/năm”, BS Thủy nói.

Theo một bác sĩ điều trị, việc nhiều người bệnh viêm gan C đến ngưỡng phải điều trị nhưng không thể điều trị vì chi phí thuốc quá đắt, liên quan đến việc các thuốc viêm gan C chưa có trong danh mục bảo hiểm, trong khi thuốc điều trị viêm gan B là được chi trả. Việc BHYT chấp nhận thanh toán loại thuốc đặc hiệu viêm gan C sẽ giúp chia sẻ khó khăn với người bệnh, mang đến cơ hội được điều trị để giúp người bệnh giảm được nguy cơ tiến triển thành xơ gan, ung thư gan.

March 26, 2013

Thuốc chữa bệnh ung thư vú có ảnh hưởng đến thai nhi?

Thuốc chua benh ung thu vú ảnh hưởng đến thai nhi như thế nào?

Chiến lược đặt ra với ung thư vú ở phụ nữ có thai phụ thuộc chủ yếu vào giai đoạn nào của thai nghén: 3 tháng đầu, 3 tháng giữa hay 3 tháng cuối.

Thai nghén không làm khó cho việc điều trị, với ung thư vú, ngày nay tiên lượng không có gì khác giữa phụ nữ có thai và không có thai. Điều này liên quan đến biểu hiện ban đầu: đó là loại ung thư của phụ nữ trẻ, nói chung xâm lấn hơn và chẩn đoán thường hơi chậm. Việc điều trị do thầy thuốc chuyên khoa ung thư và thầy thuốc phụ khoa cùng xây dựng và dựa trên giai đoạn mang thai, thể ung thư và kích thước khối u. Nhiều khi phải chỉ định hóa liệu pháp nhưng không phải thực hiện giống nhau mà theo từng giai đoạn. Thầy thuốc phải chấp nhận liệu pháp này với điều kiện phải theo dõi sát thai nghén.

Trong trường hợp phát hiện ung thư vú khi mới có thai thì vấn đề đình chỉ thai nghén được đặt ra. Việc này có thể trở nên cần thiết nếu như cần phải chỉ định khẩn cấp hóa liệu pháp, vì chỉ định này có thể làm cho phôi thai bị nhiễm độc vì đang ở giai đoạn tạo thành các cơ quan và tỷ lệ dị dạng bẩm sinh cao. Nếu người mẹ vẫn muốn giữ thai thì có hai lựa chọn: Chờ đến khi thai đã ở 3 tháng giữa (ngoài 12 tuần thai nghén) mới bắt đầu dùng hóa liệu pháp. Hoặc tạm thời bằng lòng với can thiệp ngoại khoa và chờ khi đẻ xong thì bắt đầu điều trị bổ sung. Khi đã ở giai đoạn giữa của thai nghén (ít nhất 4 tháng) thì thầy thuốc có thể yên tâm hơn vì đã có thể chỉ định hóa liệu pháp truyền thống. Ở 3 tháng cuối cũng vậy. Điều đáng ngạc nhiên là phụ nữ mang thai bị ung thư vú dung nạp liệu pháp hormon tốt hơn nhiều, không bị nôn, trạng thái sức khỏe tổng thể vẫn ít thay đổi. Hóa liệu pháp nên ngừng trước khi sinh 2 - 3 tuần và sau khi sinh 2 - 3 tuần mới tiếp tục.

Bao giờ cũng cần lo ngại về mọi thứ thuốc dùng trong khi đang mang thai, song chưa có nghiên cứu nào về ảnh hưởng của hóa liệu pháp đến thai và trẻ sơ sinh. Vì vậy, thầy thuốc đã sử dụng phương pháp hồi cứu để tiếp cận với những nguy cơ và lợi ích. Kết quả bước đầu cho thấy, không có những vấn đề nghiêm trọng xét trong thời gian ngắn, chỉ có những tác dụng tạm thời đến tình trạng máu ở trẻ sơ sinh, chưa có những nghiên cứu dài hạn ở những trẻ này và cần có nghiên cứu dài hơi hơn với những trẻ bị tác động của thuốc khi còn trong tử cung. Tất nhiên sẽ tốn kém, khó khăn nhưng khả thi. Hiện cũng chưa có nhiều thông tin về taxane như là hóa liệu pháp khi có thai và cơ chế tác dụng, chưa rõ thuốc có vô hại với thai không cho nên không dùng cho phụ nữ mang thai. Với nhiều liệu pháp khác cũng vậy (herceptin, dùng kháng thể). Số lượng bệnh nhân ít cũng gây khó khăn cho nghiên cứu. Bạn cần được tư vấn tốt bởi bác sĩ sản khoa và ung bướu. Chúc bạn may mắn!

Có cần ăn kiêng khi hóa trị ung thư hay không?

Hóa trị chua benh ung thu vú liệu có cần phải ăn kiêng không?

Có hơn 50 loại thuốc hóa chất hoặc các chế phẩm sinh học dùng cho hóa trị. Chính vì vậy, khi bệnh nhân đang hóa trị thì cần quan tâm đến chế độ ăn uống để nâng cao sức khỏe, đáp ứng điều trị. Một số người cho rằng ăn uống bồi dưỡng nhiều sẽ làm bệnh tiến triển nhanh hơn. Đây là quan điểm sai lầm. Người bệnh nếu ăn kiêng quá mức sẽ gây thiếu dinh dưỡng, sức đề kháng kém, càng khó khăn cho hóa trị. Chưa có bằng chứng nào cho thấy nhịn ăn hay sử dụng các phương pháp ăn kiêng có thể giúp cho hóa trị tốt hơn.

Nên ăn uống với lượng thức ăn vừa phải vào các buổi ăn chính ngày hóa trị. Không ăn thức ăn xào rán hay nhiều dầu mỡ. Ăn nhẹ giữa buổi trong khi chờ hóa trị và buổi tối trước khi đi ngủ.

2 - 3 ngày sau hóa trị, nên uống thuốc trong bữa ăn, trừ khi được dặn dò đặc biệt (nếu thuốc uống khi đói). Uống nước trái cây trong lúc ăn, chứ không nên uống trước ăn.

Tránh những thức ăn nhiều dầu mỡ hay xào, thức ăn cay gây khó tiêu, thức ăn có mùi khó ngửi, không uống rượu bia…

Nên chọn những thức ăn dễ tiêu như bánh mỳ, thịt gà không da (luộc, hấp), cá đã chế biến, trái cây và rau mềm, không mùi vị kích thích (táo, đào...), sữa chua, nước hoa quả.

Không nên ăn kiêng các thức ăn mà trước đây người bệnh từng ăn được (thịt bò, lợn, gà, cá… đều có thể ăn được).

Dù cần ăn uống đầy đủ chất để hồi phục sức khỏe tuy nhiên bệnh nhân cũng nên giữ cân nặng ở mức bình thường, không tăng hay giảm cân quá mức.