September 5, 2013

Bị viêm gan B có nên nuôi con bằng sữa mẹ không?

Viêm gan siêu vi B đang là một nguy cơ đe dọa sức khoẻ cộng đồng. Hiện có một số bà mẹ mắc viêm gan B lo lắng không biết có nên nuôi con bằng sữa mẹ hay không?

Theo các bác sỹ chuyên gan của Phòng Khám 12 Kim Mã, những bà mẹ nếu đã mắc viêm gan siêu vi B vẫn có thể cho con bú trực tiếp sữa mẹ nếu trẻ được bảo vệ bằng cách tiêm cho trẻ huyết thanh đặc hiệu chống siêu vi B (Ig- AntiB) 100 đơn vị ngay trong phòng đẻ, sau đó tiêm vắc-xin chống viêm gan siêu vi B ở những vị trí khác trên cơ thể trẻ sơ sinh theo công thức 3 mũi ( ngay sau đẻ, tháng thứ 2 và tháng thứ 3).

HBsAg có trong sữa mẹ nhưng lây truyền chủ yếu khi trẻ bú thường cắn đầu vú mẹ và làm trầy xước da nên phải điều trị ngay những chỗ trầy xước. Ngoài ra còn điều trị sớm tưa miệng và các chứng đau miệng của trẻ.


Ảnh minh họa


Ở Việt Nam, tỷ lệ người nhiễm siêu vi B lên tới 10-14%. Bệnh nguy hiểm do tính chất diễn biến thầm lặng (80% người bị nhiễm siêu vi không bộc lộ triệu chứng), khả năng lây mạnh (tỷ lệ nhiễm siêu vi B gấp 100 lần siêu vi gây bệnh AIDS). Có thể đột biến gây viêm gan tối cấp dẫn đến tử vong, hậu quả lâu dài và nặng nề (biến chứng có thể dẫn đến xơ gan và bệnh ung thư gan). Tỷ lệ phụ nữ mang thai nhiễm siêu vi B cũng cao tới 10-13%, lây từ mẹ sang con là 44,7%. Đường lây chủ yếu là khi thai nhi đi qua âm đạo, sau khi sinh cho trẻ bú sưã mẹ chỉ có 3-10% lây qua rau thai.

Người mẹ có thể nhiễm siêu vi B trước khi mang thai hoặc trong khi mang thai nhưng phần lớn là nhiễm từ trước. Siêu vi không gây ảnh hưởng xấu cho tiến trình mang thai cũng như bào thai, thai vẫn phát triển tốt và không có nguy cơ dị dạng. Quan trọng là nguy cơ truyền bệnh cho thai nhi, nếu trẻ không được bảo vệ ngay sau khi sinh thì 50% số trẻ này sẽ bị viêm gan mạn và có nguy cơ bị xơ gan lúc trưởng thành. Tỷ lệ bị viêm gan cấp ngay sau sinh là 5-7% mà không có biểu hiện triệu chứng rõ ràng.

Để phòng bệnh, nên làm một xét nghiệm HBsAg trong huyết thanh thai phụ vào tháng thứ 6 của thai kỳ, nếu dương tính (+), đánh giá mức độ truyền bệnh, làm xét nghiệm bổ sung HBeAg hoặc ADN và anti HBe. Tốt nhất là tiêm vaccin viêm gan B cho tất cả các phụ nữ có HBsAg âm tínhtrong huyết thanh trước hoặc trong khi có thai.

September 4, 2013

7 loại thực phẩm tăng nguy cơ ung thư

Ngoài các tác nhân vật lý, hóa chất, môi trường, vi sinh vật, căng thẳng, cảm xúc.. chế độ dinh dưỡng cũng có thể gây ung thư.

Bệnh ung thư cho đến nay kết quả điều trị vẫn chưa thực sự khả quan. Trên con đường đi tìm phương pháp điều trị căn bệnh nan y này, các nhà khoa học cũng tìm hiểu xem những nguyên nhân nào đã dẫn tới sự biến đổi phân chia các tế bào bất thường như vậy. Câu trả lời là, ngoài các tác nhân vật lý, hóa chất, môi trường, vi sinh vật, căng thẳng, cảm xúc... thì chế độ dinh dưỡng cũng là một trong những thủ phạm hàng đầu dẫn tới căn bệnh chết người này.

Từ những nghiên cứu, các nhà khoa học đã đưa ra khuyến cáo về việc cần hạn chế các thực phẩm sau đây:

Chất béo: Người dùng quá nhiều chất béo dễ bị ung thư vú, ruột già hơn. Sự liên quan giữa ung thư ruột già với thực phẩm nhiều chất béo đã được giải thích như sau: acid mật (bile acid) có nhiệm vụ tiêu hóa chất béo. Acid này được vi sinh vật clostridia ở ruột tách ra làm nhiều chất, trong đó có 3-methylchola-threne được coi như có khả năng gây ung thư ruột già. Nếu càng ăn nhiều chất béo thì lượng acid mật tiết ra càng cao, lượng 3 - methylchola - threne càng nhiều, nguy cơ ung thư ruột già rất cao. Còn với bệnh ung thư vú thì ăn nhiều chất béo làm tăng prolactin - những chất được coi như “bạn đồng hành” của ung thư vú.

Những người cùng lúc ăn nhiều chất béo và chất đạm thì nguy cơ ung thư lại càng cao hơn, nhất là ung thư vú, dạ con, thận, ruột già, tụy tạng.

Rượu: Người nghiện rượu, uống rượu nhiều trong thời gian dài rất dễ bị ung thư miệng, thanh quản, thực quản, cuống họng. Xơ cứng gan vì rượu cũng là một trong nhiều nguyên nhân gây ung thư gan. Ở phụ nữ thường xuyên uống rượu, tỉ lệ mắc ung thư vú cao gấp nhiều lần so với người không uống.

Thuốc lá: Dù không là thực phẩm nhưng thuốc lá gắn liền với thói quen sinh hoạt và được dùng với lượng lớn không kém gì thực phẩm. Đã có nhiều dẫn chứng khoa học về việc thuốc lá là nguyên nhân của nhiều loại ung thư ở cả nam và nữ, nhất là ung thư phổi. Có tới 85% tử vong ung thư phổi là do hút thuốc lá. Hút thuốc lá cũng là nguy cơ ung thư miệng, bọng đái, thận, tụy tạng. Người hít khói thuốc dư cũng chịu nhiều rủi ro cho sức khỏe.

Thực phẩm dư hóa chất diệt sâu bọ: Nhiều nghiên cứu cho thấy, một số thuốc diệt sâu bọ là nguy cơ gây ung thư khi con người tiếp xúc lâu với phân lượng cao, như là hít qua phổi, ngấm qua da hoặc lẫn trong thực phẩm.

Gia vị: Hiện nay có cả vài ba ngàn gia vị thực phẩm được sử dụng để bảo quản, tăng mùi vị và màu sắc cho thực phẩm. Theo quy định thì các gia vị này phải đảm bảo an toàn cho người sử dụng, nhưng trên thực tế không ít cơ sở đã dùng các gia vị rất độc hại cho sức khỏe. Chẳng hạn, đường hóa học cyclamate và saccharin đã được cho là làm tăng nguy cơ ung thư bàng quang vẫn được dùng trên 40 quốc gia. Chất nitrit và nitrat (có trong thực phẩm hun khói) nếu dùng nhiều sẽ gây ung thư gan, ruột già...

Thực phẩm nướng hoặc chiên: Quá trình chiên kỹ hoặc chiên đi chiên lại nhiều lần sẽ tạo ra sản phẩm phụ gọi là acrylamide. Acrylamide là một khối u chứa chất độc thần kinh mạnh, có tác dụng phụ không chỉ trên não mà cả đối với hệ thống sinh sản, tiêu hóa. Do đó, tốt nhất là hạn chế ăn các món nướng và chiên. 

Thực phẩm bị mốc: Nhiều người thường cho rằng nấm mốc trong thực phẩm khô đơn giản chỉ là một dạng vi sinh vật vô hại, có thể lau rửa sạch mà không ảnh hưởng gì đến chất lượng thực phẩm.

Tuy nhiên, theo cảnh báo của các chuyên gia, chính những nấm mốc này lại mang mầm bệnh ung thư nguy hiểm đến tính mạng con người. Gạo, lúa mỳ, đậu, ngô, đậu phộng và các loại thực phẩm khác rất dễ ẩm mốc khi bị ô nhiễm, mốc sẽ sản sinh ra chất độc hại gây ung thư là streptozotocin aflatoxin.


Hội thảo điều trị tối ưu viêm gan virus C mạn tính trên bệnh nhân Việt Nam

Ngày 30/8, tại Hà Nội, văn phòng đại diện Hoffmann-La Roche tổ chức Hội thảo khoa học với chủ đề “Điều trị tối ưu viêm gan virus C mạn tính trên bệnh nhân Việt Nam”.

Tham gia hội thảo có TS.BS Đinh Quý Lan - Chủ tịch Hội Gan Mật Việt Nam, GS.H.L.Y.Chan - Giám đốc Viện Tiêu hóa và Trung tâm Gan - Hồng Kông, cùng các chuyên gia gan mật hàng đầu ở Việt Nam.

Tại hội thảo, các chuyên gia đã chia sẻ những kinh nghiệm trong việc ứng dụng những phát triển của y học để giúp bệnh nhân Việt Nam viêm gan virus C mạn tính có nhiều cơ hội lành bệnh hơn.

Theo các chuyên gia, phác đồ điều trị hai thuốc (PEG-IFN 2a và Ribavarin) vẫn là phác đồ phù hợp cho bệnh nhân ở các nước châu Á và Việt Nam, tỷ lệ đạt SVR từ 79-85%. Thuốc nói trên đã có tại Việt Nam.

Cơ hội điều trị viêm gan virus c

Bệnh nhân viêm gan virus C mãn tính có cơ hội khỏi bệnh

Đó là khẳng định của các chuyên gia tại Hội thảo khoa học với chủ đề “Điều trị tối ưu viêm gan virus C mạn tính trên bệnh nhân Việt Nam” tổ chức tại Hà Nội.

Các chuyên gia gan mật trong nước và quốc tế đã thảo luận về những khó khăn trong điều trị viêm gan siêu vi C mạn tính tại Việt Nam, đồng thời, chia sẻ kinh nghiệm chữa bệnh.

Viêm gan virus C mạn tính là 1 trong những nguyên nhân gây xơ gan và ung thư gan, với tỉ lệ tới 4%. Ở Việt Nam, do điều kiện kinh tế, hiểu biết, ý thức chăm sóc về sức khoẻ nên việc tầm soát và điều trị viêm gan virus C mạn tính còn nhiều khó khăn.

Tuy nhiên, theo ông GS. H.L.Y. Chan Giám đốc Viện tiêu hóa và Trung tâm gan (Hồng Kông): Nếu được chẩn đoán xác định kiểu gen, đo độ xơ hóa của gan để lựa chọn phác đồ điều trị thích hợp, thì bệnh nhân vẫn có nhiều cơ hội khỏi bệnh.

Theo các chuyên gia, phác đồ điều trị hai thuốc (PEG-IFN 2a và Ribavarin) vẫn phù hợp cho bệnh nhân ở các nước châu Á và Việt Nam. Đặc biệt, bệnh nhân châu Á đa phần mang gen IL28cc, nên sẽ đáp ứng cao với PEG-IFN 2a/Ribavirin, tỷ lệ đạt SVR từ 79-85%, ngay cả với bệnh nhân VGSVC genotype 1”.

Sốc vì giá thuốc gây ung thư

Ở Ireland, thuốc chua benh ung thu vú có giá hơn 2 tỉ VNĐ/18 tháng, thuốc điều trị ung thư phổi cho người lớn cũng tương đương 1,4 tỷ đồng trong hơn 7 tháng.

Hai loại thuốc chua benh ung thu vú được gọi là Perjeta do Roche sản xuất và thuốc ung thư phổi được gọi là Xalkori của hãng dược phẩm Pfizer được đánh giá là có giá cả quá đắt.

Sở Điều hành Y tế Ireland (HSE) đã được đề nghị ngừng tài trợ cho việc sử dụng của hai loại thuốc ung thư mới do chi phí quá đắt.

Đề nghị này được đưa ra bởi Trung tâm chuyên khảo sát giá thuốc quốc gia Ireland (NCPE) đối với hai loại thuốc điều trị ung thư vú được gọi là Perjeta do Roche sản xuất và thuốc ung thư phổi được gọi là Xalkori của hãng dược phẩm Pfizer.

Đánh giá của NCPE cho hay, thuốc Perjeta làm tăng đáng kể tỷ lệ sống sót trung bình cho bệnh nhân ung thư vú nhưng con số chính xác vẫn chưa chắc chắn ở thời điểm hiện tại. Loại thuốc này được sử dụng cho phụ nữ bị ung thư vú di căn hoặc tái phát tại địa phương, những người đã không được điều trị triệt để hoặc hóa trị trước đó.

Theo NCPE, chi phí của thuốc Perjeta lên tới 74.000 euro (tương đương hơn 2 tỷ đồng) cho mỗi bệnh nhân để điều trị trung bình 18 tháng. Chi phí này quá đắt đỏ đối với bệnh nhân và việc giảm giá thực sự là rất cần thiết.

Trong trường hợp của thuốc Xalkori - thuốc điều trị ung thư phổi cho người lớn, chi phí điều trị cũng lên tới gần 50.000 euro/bệnh nhân (tương đương 1,4 tỷ đồng) trong hơn 7 tháng.

Ở mức giá hiện tại, loại thuốc Xalkori không được đánh giá là phương pháp điều trị quá đắt đỏ để cải thiện tỷ lệ sống của bệnh nhân ung thư.

Trước kiến nghị trên, Bộ Y tế Ireland, HSE và các công ty dược phẩm đã phải ngồi lại với nhau đàm phán và đi đến một thỏa thuận giảm giá đối với một số loại thuốc điều trị ung thư cho bệnh nhân, tiêu biểu là hai loại thuốc trên.