Cơ Quan Quản Lý Thực Phẩm và Dược Phẩm Hoa Kỳ FDA đã chấp thuận sử dụng viên Sorafenib Tosylate (Tên biệt dược Nexavar do Onyx Pharmaceuticals, Inc, và Bayer Pharmaceuticals Corp sản xuất) để điều trị cho bệnh nhân ung thư tế bào gan (HCC) quá chỉ định phẫu thuật.
Đa số các ung thư gan là ung thư tế bào gan (HCC), việc cắt bỏ hoàn toàn là rất khó và thời gian sống kéo dài thường chỉ từ 3 đến 6 tháng. Sorafenib là một chất ức chế multikinase nhằm vào serine/threonine và các thụ thể tyrosine kinases để giảm bớt sự tăng trưởng của khối u và sự tân tạo mạch máu (angiogenesis). Các nghiên cứu tiền lâm sàng đã chứng minh thuốc có tác dụng chống RAF kinase; thụ thể 2 và 3 VGEF(yếu tố tăng trưởng nội mạc mạch máu = vascular endothelial growth factor); các thụ thể của yếu tố tăng trưởng dẫn xuất từ tiểu cầu (platelet-derived growth factor receptor), beta polypeptide; KIT; và tyrosine kinase 3 liên quan đến FMS.
Các dữ liệu từ nghiên cứu đa trung tâm, mù đôi, pha 3, ngẫu nhiên về tác dụng của Sorafenib trên HCC (Sorafenib HCC Assessment Randomized Protocol trial) cho thấy việc điều trị bằng sorafenib tăng đáng kề thời gian sống sót trung bình (OS) và thời gian để u tiến triển (time to tumor progression = TTP) so với placebo theo thứ tự là (OS, 10.7 so với 7.9 tháng; độ nghi ngờ hazard ratio [HR], 0.69; P = .00058; và TTP, 5.5 so với 2.8 tháng; độ nghi ngờ HR, 0.58; P = .000007).
Tính đến thời điểm này, thử nghiệm đã chấm dứt do thuốc có hiệu quả. Theo thông cáo báo chí từ nhà sản xuất, sorafenib là thuốc duy nhất đã được chứng minh có cải thiện đáng kể thời gian sống cho người bệnh ung thư gan.
Theo thông tin từ công ty sản xuất, đã không có phản ứng phụ nguy hiểm nào được ghi nhận. Một số phản ứng thường gặp nhất khi sử dụng sorafenib là: tiêu chảy (55%), phản ứng trên da ở tay chân (21%), và sẩn ngứa (19%). Nhiễm độc da thường xuất hiện trong 6 tuần điều trị đầu tiên và thường ở mức 1 hoặc 2 tính theo độ nặng. Thiếu máu hoặc nhồi máu cơ tim xảy ra ở 2.9% dùng sorafenib so với 0.4% dùng placebo và cần ngưng thuốc tạm thời hoặc vĩnh viễn nếu xảy ra tình trạng này.
Mặc dù tăng huyết áp có thể xảy ra nhiều hơn trên bệnh nhân dùng sorafenib so với placebo (9.4% so với 4.3%), nhưng thường chỉ gặp tăng huyết áp vừa phải, xảy ra sớm sau khi dùng thuốc, và được kiểm soát tốt bằng các thuốc điều trị hạ áp thông thường. Cần theo dõi sát huyết áp trong 6 tuần điều trị đầu tiên và định kỳ trong thời gian kế tiếp.
Liều khuyến cáo của sorafenib là 400mg (2 viên) uống 2 lần mỗi ngày trước khi ăn. Nếu xảy ra phản ứng phụ (vd sẩn ngứa) cần tạm thời ngưng thuốc hoặc giảm liều xuống 400 mg/ngày hoặc 400mg uống cách ngày.
Dùng đồng thời với các thuốc thúc đẩy mạnh isoenzyme 3A4 của cytochrome P450 (vd, Thuốc St. John’s Wort, dexamethasone, phenytoin, carbamazepine, rifampin, rifabutin, và phenobarbital) có thể làm giảm nồng độ sorafenib trong huyết tương, do đó nên tránh phối hợp chung các thuốc này với nhau. Và do sorafenib có thể làm tăng nồng độ doxorubicin và docetaxel nên việc sử dụng chung với các thuốc này cần phải rất thận trọng.
Trước đây, Sorafenib đã được chấp thuận sử dụng cho ung thư gan quá chỉ định phẫu thuật bởi Uỷ Ban Châu Âu vào tháng 11-2007 và được Uỷ Ban Châu Âu và FDA chấp thuận sử dụng trong điều trị ung thư thận giai đoạn tiến triển.
Đa số các ung thư gan là ung thư tế bào gan (HCC), việc cắt bỏ hoàn toàn là rất khó và thời gian sống kéo dài thường chỉ từ 3 đến 6 tháng. Sorafenib là một chất ức chế multikinase nhằm vào serine/threonine và các thụ thể tyrosine kinases để giảm bớt sự tăng trưởng của khối u và sự tân tạo mạch máu (angiogenesis). Các nghiên cứu tiền lâm sàng đã chứng minh thuốc có tác dụng chống RAF kinase; thụ thể 2 và 3 VGEF(yếu tố tăng trưởng nội mạc mạch máu = vascular endothelial growth factor); các thụ thể của yếu tố tăng trưởng dẫn xuất từ tiểu cầu (platelet-derived growth factor receptor), beta polypeptide; KIT; và tyrosine kinase 3 liên quan đến FMS.
Các dữ liệu từ nghiên cứu đa trung tâm, mù đôi, pha 3, ngẫu nhiên về tác dụng của Sorafenib trên HCC (Sorafenib HCC Assessment Randomized Protocol trial) cho thấy việc điều trị bằng sorafenib tăng đáng kề thời gian sống sót trung bình (OS) và thời gian để u tiến triển (time to tumor progression = TTP) so với placebo theo thứ tự là (OS, 10.7 so với 7.9 tháng; độ nghi ngờ hazard ratio [HR], 0.69; P = .00058; và TTP, 5.5 so với 2.8 tháng; độ nghi ngờ HR, 0.58; P = .000007).
Tính đến thời điểm này, thử nghiệm đã chấm dứt do thuốc có hiệu quả. Theo thông cáo báo chí từ nhà sản xuất, sorafenib là thuốc duy nhất đã được chứng minh có cải thiện đáng kể thời gian sống cho người bệnh ung thư gan.
Theo thông tin từ công ty sản xuất, đã không có phản ứng phụ nguy hiểm nào được ghi nhận. Một số phản ứng thường gặp nhất khi sử dụng sorafenib là: tiêu chảy (55%), phản ứng trên da ở tay chân (21%), và sẩn ngứa (19%). Nhiễm độc da thường xuất hiện trong 6 tuần điều trị đầu tiên và thường ở mức 1 hoặc 2 tính theo độ nặng. Thiếu máu hoặc nhồi máu cơ tim xảy ra ở 2.9% dùng sorafenib so với 0.4% dùng placebo và cần ngưng thuốc tạm thời hoặc vĩnh viễn nếu xảy ra tình trạng này.
Mặc dù tăng huyết áp có thể xảy ra nhiều hơn trên bệnh nhân dùng sorafenib so với placebo (9.4% so với 4.3%), nhưng thường chỉ gặp tăng huyết áp vừa phải, xảy ra sớm sau khi dùng thuốc, và được kiểm soát tốt bằng các thuốc điều trị hạ áp thông thường. Cần theo dõi sát huyết áp trong 6 tuần điều trị đầu tiên và định kỳ trong thời gian kế tiếp.
Liều khuyến cáo của sorafenib là 400mg (2 viên) uống 2 lần mỗi ngày trước khi ăn. Nếu xảy ra phản ứng phụ (vd sẩn ngứa) cần tạm thời ngưng thuốc hoặc giảm liều xuống 400 mg/ngày hoặc 400mg uống cách ngày.
Dùng đồng thời với các thuốc thúc đẩy mạnh isoenzyme 3A4 của cytochrome P450 (vd, Thuốc St. John’s Wort, dexamethasone, phenytoin, carbamazepine, rifampin, rifabutin, và phenobarbital) có thể làm giảm nồng độ sorafenib trong huyết tương, do đó nên tránh phối hợp chung các thuốc này với nhau. Và do sorafenib có thể làm tăng nồng độ doxorubicin và docetaxel nên việc sử dụng chung với các thuốc này cần phải rất thận trọng.
Trước đây, Sorafenib đã được chấp thuận sử dụng cho ung thư gan quá chỉ định phẫu thuật bởi Uỷ Ban Châu Âu vào tháng 11-2007 và được Uỷ Ban Châu Âu và FDA chấp thuận sử dụng trong điều trị ung thư thận giai đoạn tiến triển.
No comments:
Post a Comment