August 21, 2013

Đánh bại viêm gan C

Với đội ngũ y bác sĩ tận tình, giàu chuyên môn, cơ sở vật chất hiện đại, cập nhật những phương pháp chữa bệnh gan tiên tiến nhất trong nước và trên thế giới, Phòng Khám Chuyên Gan 12 Kim Mã đã và đang trở thành một cơ sở y tế điều trị các bệnh về gan uy tín nhất tại Hà Nội hiện nay. Tùy vào đặc điểm bệnh tình, thể trạng của bệnh nhân, các bác sỹ chuyên khoa tại phòng khám sẽ tư vấn phương pháp và tiến trình điều trị bệnh cho từng bệnh nhân, sao cho đạt hiệu quả điều trị cao nhất. Hiện nay, phòng khám đang áp dụng 3 phương pháp chữa bệnh gan tiên tiến nhất, đó là công nghệ chữa bệnh gan bằng tế bào gốc, chữa bệnh gan bằng liệu pháp ozone và chữa bệnh gan bằng thuốc. Ba phương pháp chữa trị trên đều hướng tới mục đích chữa trị cuối cùng là khống chế số lượng virut trong cơ thể bệnh nhân, đưa về mức dưới ngưỡng phát hiện.

Dưới đây, chúng tôi xin được giới thiệu bệnh án của một bệnh nhân viêm gan B đã thành công trong việc khống chế số lượng virut, đưa lượng virut trở về dưới ngưỡng phát hiện bằng phương pháp dùng thuốc theo tiến trình điều trị của các bác sỹ chuyên gan tại Phòng Khám 12 Kim Mã. Xin được giới thiệu bệnh án của bệnh nhân này để quý độc giả tham khảo!

Tên bệnh nhân: Vũ. M. Q, 22 tuổi, ở NB.

Tháng 12 năm 2012, trong một lần đi thử máu, anh Q. tình cờ phát hiện mình đã bị nhiễm virut viêm gan B. Nghĩ rằng đây là một căn bệnh nan y, không thể chữa khỏi, người mắc bệnh này sẽ bị xã hội xa lánh nên anh Q. vô cùng tự ti, mặc cảm, không dám đến bệnh viện để điều trị. Cho đến khi bệnh tiến triển nhanh chóng, bắt đầu xuất hiện dấu hiệu hoàng đản, sốt, chán ăn, trướng bụng, anh Q. mới quyết định đi khám. Qua các phương tiện truyền thông, anh Q. đã tìm đến phòng khám chuyên gan 12 Kim Mã để được xét nghiệm tổng quát về gan, xác định rõ tình trạng bệnh của mình.

Kết quả xét nghiệm viêm gan B của anh Q: anh Q. đã nhiễm virut viêm gan B thể mãn tính, virut đang hoạt động và sao chép mạnh.

Hơn nữa, theo kết quả siêu âm, anh Q. đã có biểu hiện gan xơ hóa nhẹ, gan thô, kích thước gan tăng nhẹ. Do đó, bác sỹ yêu cầu anh phải tiến hành điều trị viêm gan ngay trước khi chuyển sang giai đoạn gan xơ hóa.

Sau 2 tháng điều trị tích cực bằng thuốc, dưới sự theo dõi sát sao của bác sỹ chuyên khoa, kết hợp với chế độ sinh hoạt hợp lý mà các bác sỹ tư vấn, kết quả điều trị của anh Q. rất khả quan: số lượng virut đã được khống chế thành công, từ 1.039.000 copies/ml ban đầu chuyển thành dưới ngưỡng phát hiện. Đây thực sự là một kết quả điều trị rất đáng mừng, virut đã giảm đáng kể , và trong tình trạng có thể khống chế được.

Lượng HBV DNA giảm xuống dưới ngưỡng phát hiện sau 2 tháng tích cực

Đồng thời, sau 2 tháng tích cực điều trị, kích thước gan đã giảm, tĩnh mạch cửa không còn giãn:

Sự thành công trong việc điều trị viêm gan B cho bệnh nhân, cùng với sức khỏe bệnh nhân ngày càng biến chuyển tốt thật sự là món quà vô giá đối với đội ngũ y bác sỹ tại phòng khám chúng tôi. Nếu phát hiện mình bị viêm gan B, hoặc thuộc nhóm đối tượng có khả năng nhiễm viêm gan B cao, các bạn nên đi khám gan tổng quát để biết được tình trạng bệnh của mình, từ đó có tiến trình điều trị phù hợp, tránh để lâu, bệnh tiến triển nặng thì sẽ rất khó chữa và có nguy cơ lây sang gia đình, người thân nhiều hơn.

Hiểu đúng về bệnh gan và hãy có ý thức bảo vệ lá gan của mình là cách tốt nhất để đẩy lùi căn bệnh đáng sợ viêm gan B!

Xem thêm: triệu chứng viêm gan

August 20, 2013

Ngăn chặn bệnh xơ gan

Bênh xơ gan là bệnh mạn tính, tổn thương nặng lan tỏa ở các thùy gan tạo ra mô xơ, cấu trúc các tiểu thùy và mạch máu của gan bị hủy hoại không hồi phục.

Tổn thương xơ gan.

Gan bị xơ chai bởi 3 quá trình xảy ra đồng thời hay nối tiếp nhau: hoại tử nhu mô gan; tăng sinh mô xơ; tạo thành những hòn, cục và tiểu thùy giả.

Bệnh xơ gan thường do nhiều yếu tố gây ra như viêm gan virut B, virut B bội nhiễm virut D, virut C; người nghiện rượu: uống nhiều rượu hàng ngày và kéo dài nhiều năm; xơ gan thứ phát do tắc mật không hoàn toàn kéo dài, do sỏi mật, dính hẹp ở ống gan, ống mật chủ, viêm đường mật tái phát; do dùng một số loại thuốc gây tổn thương gan như: oxyphenisatin, clopromazin, INH, rifampycin...; do nhiễm các hóa chất độc hại gan: aflatoxin, dioxin, chất độc thảo mộc hại gan như cây có hạt thuộc họ Senecio và các alcaloit của nó...; do thiếu dinh dưỡng: quá thiếu chất đạm, thiếu vitamin, thiếu các chất hướng mỡ như cholin, lexithin . . .; do ký sinh trùng như sán máng, sán lá nhỏ...; do bệnh tắc tĩnh mạch gan và xơ gan không rõ nguyên nhân.

Ba thể bệnh khi bị xơ gan

Trên thực tế, bệnh xơ gan có biểu hiện ra 3 thể bệnh là: xơ gan tiềm tàng; xơ gan còn bù tốt và xơ gan tiến triển, mất bù.

Ở thể xơ gan tiềm tàng, mặc dù bệnh nhân có xơ gan nhưng không có triệu chứng gì, việc phát hiện bệnh chỉ là sự tình cờ như phẫu thuật bụng vì một bệnh khác thấy xơ gan; chẩn đoán hình ảnh một bệnh khác nhưng lại phát hiện được hình ảnh xơ gan...

Thể xơ gan còn bù tốt, bệnh nhân thường có các dấu hiệu sau: rối loạn tiêu hóa như ăn không tiêu, đầy bụng, trướng hơi; đau tức nhẹ vùng hạ sườn phải; chảy máu cam không rõ nguyên nhân; nước tiểu thường có màu vàng sẫm; suy giảm tình dục: nam thì liệt dương, nữ thì vô kinh và vô sinh; gan hơi to và chắc, lách to quá bờ sườn; có mao mạch ở lưng và ngực, hay nổi mẩn đỏ ở lòng bàn tay; lông ở nách, ở bộ phận sinh dục thưa thớt; móng tay khô trắng; nam giới: tinh hoàn teo nhẽo, vú to. Xét nghiệm thấy: albumin giảm, gama globulin tăng; men maclagan tăng trên 10 đơn vị; siêu âm thấy gan to, vang âm của nhu mô gan thô, không thuần nhất; soi ổ bụng và sinh thiết thấy tổn thương xơ gan. Thể bệnh này có thời gian ổn định trong nhiều năm, nhưng thường tiến triển nặng dần từng đợt, nhất là khi bị viêm nhiễm làm cho bệnh xơ gan trở thành mất bù hoặc biến chứng nặng.

Thể xơ gan mất bù, bệnh nhân có các triệu chứng: gầy sút nhiều, chân tay khẳng khiu, huyết áp thấp; bị rối loạn tiêu hóa thường xuyên, chán ăn, ăn không tiêu, đại tiện phân lỏng, phân sống; mệt mỏi thường xuyên, ít ngủ, giảm trí nhớ; chảy máu cam, chảy máu chân răng; da mặt xạm; có nhiều đám xuất huyết ở da bàn chân, bàn tay, vai, ngực; phù hai chân; có cổ trướng, tuần hoàn bàng hệ; lách to hơn bình thường, chắc. Xét nghiệm: albumin giảm, gamma globulin tăng cao; bilirubin máu, men transaminaza tăng trong các đợt tiến triển; hồng cầu, bạch cầu. tiểu cầu thường giảm; chụp và soi thấy giãn tĩnh mạch thực quản; siêu âm thấy trên mặt gan có nhiều nốt đậm âm, có hình ảnh giãn tĩnh mạch cửa, giãn tĩnh mạch lách...; nội soi ổ bụng thấy gan to, hoặc teo nhỏ, nhạt màu; trên mặt gan có những u nhỏ đều, hay to nhỏ không đều; lách to, có dịch ổ bụng.

Cần một chế độ chăm sóc và dinh dưỡng hợp lý

Bệnh nhân xơ gan cần chế độ ăn uống, nghỉ ngơi thích hợp: khi bệnh tiến triển có cổ trướng, cần được nghỉ ngơi tuyệt đối. Ăn uống đủ chất, hợp khẩu vị của bệnh nhân, phải đảm bảo đủ calo (2.500 - 3.000 calo/ngày); ăn nhiều đạm (100g/ngày); nhiều vitamin C, vitamin nhóm B; hạn chế ăn mỡ; bệnh nhân chỉ ăn nhạt khi có phù nề. Nếu có dấu hiệu hôn mê gan phải hạn chế lượng đạm trong khẩu phần ăn. Dùng thuốc cải thiện chuyển hóa tế bào gan và các nội tiết tố glucocorticoit; thuốc hỗ trợ chuyển hóa tế bào gan như vitamin C, B12, cyanidanol... Dùng phối hợp thuốc Nam như: nhân trần, actiso, tam thất... Điều trị cổ trướng: dùng thuốc lợi tiểu chống thải kali.

Lời khuyên của bác sĩ

Bệnh xơ gan nếu để tiến triển đến giai đoạn cuối, gan bị thoái hóa, tổn thương không hồi phục được, vì vậy việc phòng tránh bệnh xơ gan là vấn đề rất quan trọng. Mọi người có thể áp dụng các biện pháp ngăn chặn, loại trừ các nguyên nhân xơ gan như phòng viêm gan virut B và C bằng các biện pháp vệ sinh cá nhân thật tốt; tiêm phòng bệnh viêm gan virut B cho trẻ em và những người lớn chưa bị bệnh; phải làm tốt công tác vô khuẩn và khử khuẩn mỗi khi tiêm truyền, châm cứu; an toàn truyền máu. Sinh hoạt lành mạnh: hạn chế hoặc bỏ hẳn rượu, bia, bỏ hút thuốc lá. Hàng ngày ăn uống đủ chất: đạm, đường, béo, vitamin và khoáng chất. Phòng nhiễm các bệnh giun sán bằng cách thực hiện ăn chín, uống sôi, không ăn cá hay hải sản tái, sống hoặc chưa nấu chín kỹ, không ăn rau sống, không uống nước lã. Khi có bệnh gan mật cần điều trị tích cực.

Xem thêm: chua benh ung thu | thuoc tri benh gan

Viêm gan B - tác nhân gây ung thư gan

Gan là một trong những cơ quan quan trọng nhất đóng vai trò sống còn trong cơ thể con người. Viêm gan là hiện tượng viêm và hủy hoại tế bào gan. Hiện viêm gan siêu vi là một trong những bệnh truyền nhiễm phổ biến nhất trên thế giới. Hiện nay có 6 loại virus gây viêm gan, trong đó phổ biến và nguy hiểm nhất là siêu vi B và C.

Theo báo cáo của Tổ chức y tế thế giới, viêm gan B được xếp hàng thứ 9 trong những nguyên nhân gây tử vong và có khoảng 40% người bị viêm gan siêu vi B mạn tính chết vì xơ gan, ung thư gan . . .. Khoảng 2 tỷ người trên thế giới đã hoặc đang nhiễm virus viêm gan B và 350 triệu người mang virus này mạn tính. Khoảng 60% đến 80% bệnh nhân ung thư gan có nguồn gốc từ viêm gan siêu vi B. Những người bị viêm gan siêu vi B mạn tính có nguy cơ ung thư gan gấp 200 lần người bình thường.

Vậy viêm gan B ảnh hưởng tới sức khỏe con người như thế nào? Triệu chứng ra sao? Cách phòng ngừa và điều trị? Tất cả câu hỏi về liên quan đến viêm gan B sẽ được PGS-TS Bùi Hữu Hoàng, Trưởng phân khoa Tiêu hóa Gan mật Bệnh viện Đại học Y dược TPHCM và BS CKII Trần Ánh Tuyết, Phòng khám Đa khoa quốc tế Yersin giải đáp trực tiếp vào lúc 9 giờ sáng 24-8 tại lầu 9, số 10 Trương Định, quận 3, TPHCM.


Cơ hội phục hồi tổn thương cột sống cho người

Bác sĩ Nguyễn Văn Thạch, phó giám đốc Bệnh viện Việt Đức, cho biết tính từ tháng 3-2013 đến nay có hơn 10 bệnh nhân được điều trị bằng kỹ thuật tế bào gốc.

Cơ hội phục hồi tổn thương cột sống nhờ ghép tế bào gốc

"VN mới ứng dụng kỹ thuật này, nhưng ở nước ngoài thì sau điều trị bằng ghép tế bào gốc, tập phục hồi chức năng, bệnh nhân có thể đi lại bằng đôi chân của chính mình nhưng có gắn kèm kẹp đỡ bằng kim loại. Tôi cho rằng đây là một điều kỳ diệu"

Bệnh nhân đầu tiên là nam giới 29 tuổi, bị tai nạn xe máy tháng 3-2013. Khi vào viện, bệnh nhân trong tình trạng mất vận động hai chi dưới, mất phản xạ cơ thắt, đại tiểu tiện không tự chủ. Kết quả chụp X-quang và cộng hưởng từ cho thấy bệnh nhân bị vỡ trật cột sống vùng ngực và dập, phù nề tủy.

“Chúng tôi đã phẫu thuật cố định cột sống vùng ngực và ghép tế bào gốc tách chiết từ mô mỡ tự thân của bệnh nhân ngày 19-3, liều ghép là 10ml tế bào gốc tách chiết từ khoảng 100ml mỡ ghép ở vùng trên tổn thương, giữa tổn thương và dưới tổn thương mỗi điểm 2ml, 4ml còn lại mở màng cứng bơm trực tiếp. Theo dõi ngày thứ ba sau ghép, bệnh nhân đã có cảm giác ở vùng ngang cột sống vùng ngực và sau đó được chuyển đi tập phục hồi chức năng”- bác sĩ Thạch nói.

Một trường hợp khác cũng được điều trị liệt bằng ghép mô mỡ tại Bệnh viện Việt Đức trong tháng 3-2013 là nam giới 31 tuổi, chấn thương cột sống vùng cổ, mất vận động tứ chi, mất phản xạ cơ thắt, đại tiểu tiện không tự chủ sau tai nạn xe máy. Theo bác sĩ Thạch, đây là trường hợp bị vỡ cột sống cổ C5-C6, đụng dập tủy. Bệnh nhân cũng được phẫu thuật cố định cột sống cổ và ghép tế bào gốc tách chiết từ mô mỡ tự thân. Kết quả ba ngày sau mổ, bệnh nhân bắt đầu có cảm giác ở vùng cột sống thắt lưng, có phản xạ tự động tủy, sau năm ngày ghép bệnh nhân được chuyển đi phục hồi chức năng.

Bác sĩ Thạch cho biết đây là một phần của đề án nghiên cứu ghép tế bào gốc từ mô mỡ để điều trị liệt cho 38 bệnh nhân, nghiên cứu sẽ kéo dài trong ba năm. Theo ông Thạch, qua theo dõi gần nửa năm ở những bệnh nhân đầu tiên được ghép, những tiến bộ cảm nhận được là bệnh nhân đã có những tiến bộ như tiêu, tiểu tự chủ, có cảm giác ở các vùng dưới tổn thương. “Chúng tôi chọn những bệnh nhân đảm bảo các yếu tố như liệt sau chấn thương và sẽ theo dõi kỹ sau ghép. Nếu hiệu quả điều trị như mong muốn, phương pháp này mở ra nhiều cơ hội phục hồi cho bệnh nhân không may bị liệt sau chấn thương. Như ở Thái Lan có một bệnh nhân đi lại được với sự hỗ trợ của giá đỡ hai chân. Tuy Thái Lan chưa công bố thành công này, nhưng kết quả điều trị cho thấy hi vọng phục hồi cho bệnh nhân”- bác sĩ Thạch chia sẻ.

Cải thiện chất lượng cuộc sống

Theo nhóm nghiên cứu thực hiện kỹ thuật này tại Bệnh viện Việt Đức, từ việc tiêm tế bào gốc vào vùng tổn thương, có tế bào gốc hiện diện sẽ tiết ra yếu tố tăng trưởng, đồng thời tiết ra tín hiệu huy động yếu tố tăng trưởng cần thiết trong cơ thể vật chủ, kích thích việc hình thành mạch máu và tế bào thần kinh mới. Điều này cũng giúp cơ thể vật chủ tự hồi phục. Nhóm nghiên cứu cho rằng ở VN chấn thương cột sống chủ yếu gặp ở người 35-40 tuổi, thuộc nhóm lao động chính trong gia đình, nếu liệt tủy hoàn toàn thì ngoài mất sức lao động còn gặp các biến chứng như loét vùng tỳ đè, nhiễm trùng tiết niệu, viêm tắc tĩnh mạch chi, gây sang chấn thần kinh cho cả bệnh nhân và gia đình. Trong khi nếu điều trị cải thiện được tình trạng liệt tủy, bệnh nhân có thể trở về cuộc sống bình thường.

Bác sĩ Dương Đình Toàn (Bệnh viện Việt Đức) cũng cho rằng trước đây gần như 100% bệnh nhân do chấn thương cột sống phải ngồi xe lăn, những trường hợp liệt nặng thậm chí không thể lăn trở mình hay vận động chân tay. Tuy nhiên với kỹ thuật này, hi vọng cải thiện nhiều hơn về chất lượng cuộc sống của bệnh nhân: bệnh nhân có thể tự ngồi dậy, vận động được chân tay, mặc dù phục hồi hoàn toàn các bó cơ và đi lại được như trước thì không thể.


Giải độc gan do tác hại của rượu bằng thảo mộc rất hiệu quả

Rối loạn thần kinh là một trong những tác hại nặng nhất mà người uống rượu bia thiếu kiểm soát dễ dàng gặp phải. Ngoài ra, đây cũng là nguyên nhân của hơn 60 loại bệnh tật và là nguyên nhân chính dẫn đến các bệnh về gan mật, nguy cơ dẫn đến ung thư gan rất cao.


Rượu gây hại cho gan

Sau mỗi cuộc nhậu nhẹt vốn không xa lạ với nhiều đấng mày râu. Nhẹ thì ngủ dậy thấy đau đầu, mệt mỏi, chóng mặt, phản xạ chậm. Nặng hơn một chút thì mệt mỏi kéo dài, ngộ độc, tiêu chảy nhẹ, mất nước, mất khả năng tập trung, dễ cáu kỉnh và nhạy cảm với ánh sáng… Hơn thế, theo thời gian, lượng độc tố từ rượu vào cơ thể tích tụ nhiều còn làm tăng các nguy cơ gây bệnh như: thoái hóa chức năng gan, xơ gan, ung thư gan, . . . .



Chính vì vậy, không chỉ các cơ quan quản lý nhà nước, mà ngay cả những doanh nghiệp chuyên sản xuất, cung cấp bia rượu cũng đưa ra thông điệp cảnh báo về tác hại của rượu bia. Đây được coi là một trong những động thái giúp người tiêu dùng hiểu thêm về tác hại của rượu bia, tránh lạm dụng sản phẩm này.

Hạn chế tác hại của rượu bằng thảo mộc

Đến nay, có không ít kinh nghiệm dân gian giúp người uống không bị ảnh hưởng trực tiếp từ bia rượu. Nhưng, theo các chuyên gia y tế, những "bí kíp" này chỉ có tác dụng làm giảm bớt những tác hại bề nổi của rượu bia như mệt mỏi, đau đầu, buồn nôn… chứ không thể ngăn các độc tố từ rượu tấn công vào gan và các bộ phận nội tạng khác.

Chính vì vậy, ngoài các biện pháp “cấp tốc” như sử dụng viên giải rượu, uống thật nhiều nước pha bột sắn dây… thì các biện pháp lâu dài chính là hạn chế sử dụng rượu bia, giúp cơ thể thải độc bền bỉ bằng cách sử dụng những sản phẩm có tác dụng hóa giải độc tố của rượu và cân bằng "nội nhiệt". Hiện, trên thị trường nước giải khát đóng chai, đã có một vài sản phẩm có nguồn gốc thảo dược thiên nhiên, được sản xuất theo công nghệ sản xuất hiện đại, đáp ứng tiêu chuẩn "thanh lọc" cơ thể này.

Đơn cử, trà thảo mộc Dr. Thanh có chứa đến 9 loại thảo mộc (với tác dụng chủ trị là thanh nhiệt, tiêu viêm, quân bình cơ thể…) là sản phẩm hiện được khá nhiều người lựa chọn.



Trong sản phẩm này, đầu tiên phải kể đến nguyên liệu Hạ khô thảo (tên khoa học Prunella vulgaris L.), thuộc họ Hoa Môi (Lamiaceae). Theo Đông y, Hạ khô thảo có vị đắng, tính hàn, thanh hoả minh mục, tán kết tiêu thũng; có tác dụng lợi tiểu mát gan, giải độc gan, sát trùng, tiêu độc, trị đau mắt hay chảy nước mắt, tràng nhạc (lao hạch), bướu cổ, viêm tử cung và âm hộ, trị gan mật nhiệt, huyết áp cao.

Ngoài ra, còn phải kể đến thành phần các loại “dược hoa” thiên nhiên góp mặt trong đó, như hoa cúc vị ngọt đắng, tính hơi hàn, đi vào gan thận, phế có tác dụng tán phong giáng hỏa, thanh nhiệt, giúp cân bằng âm dương của gan, giúp khí huyết lưu thông, thư giãn, làm dịu căng thẳng thần kinh, giúp ngủ ngon; hoa sứ đỏ (tên khoa học Plumeria rubra) đi vào kinh phế có tác dụng thông khí, dưỡng phế, tiêu đàm, thanh nhiệt, giải độc, hạ huyết áp; hay Hoa mộc miên (hay hoa gạo, hoa hồng miên) vị đắng chát, ngọt hậu, tính bình, tác dụng làm se, tiêu viêm, sát khuẩn, thông huyết nên đã trở thành dược liệu sử dụng nhiều trong trị liệu; và cuối cùng là hoa Kim ngân - một cây thuốc được dùng trong phòng chữa ung thư của Đông y.

Bên cạnh đó, còn có La hán quả (tên khoa học Momordica grosvenori Swingle, thuộc họ Cucurbitaceae) thường được dùng làm nước uống giải nhiệt, giúp cơ thể thư thái, chữa ho, thanh nhiệt, chữa tiện bí...; Cam thảo - một vị được dùng trên 90% bài thuốc của Đông y; Bung Lai (còn gọi là Chua kè, Cò kè, Mé) thường được dùng để trị cảm lạnh, đau đầu; tiêu hoá kém, trướng bụng, tiêu chảy, viêm gan; Tiên thảo (còn gọi là thạch đen, sương sáo…) vốn được biết đến nhiều khi chế biến thành thạch đen giải khát...

Theo các nhà đông y, nguyên liệu thảo mộc vốn có hiệu quả cao, song không dễ để chế biến, bảo quản và tạo ra những thực phẩm tốt cho sức khỏe. Chính vì thế, để có thể kết hợp thành thứ nước uống bổ dưỡng, có tác dụng thải độc tích cực với cơ thể, nhà sản xuất đã đầu tư dây chuyền công nghệ chiết lạnh vô trùng Aseptic để tạo ra những chai trà thảo mộc Dr. Thanh giữ nguyên vẹn tinh chất thảo mộc quý và đảm bảo tuyệt đối về vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm.