March 18, 2013

Di căn bị tái phát sau khi điều trị ung thư

chua benh ung thu là một trong những đề tài khó của ngành Y học thế giới, những phương pháp điều trị truyền thống như phẫu thuật, hóa trị, xạ trị đã có những tác dụng mang tính quyết định trong thế kỷ 20.


Bệnh tình của bà NaHa chuyển biến tốt sau khi điều trị.


Không thể phủ nhận rằng những kĩ thuật này đã giúp không ít bệnh nhân ung thư thuyên giảm bệnh tình. Tuy nhiên, trong lâm sàng người ta phát hiện phẫu thuật, xạ trị, hóa trị vẫn tồn tại những khuyết điểm như: phẫu thuật xong dễ tái phát và di căn; xạ - hóa trị không có hiệu quả với những tế bào ung thư ẩn và tế bào gốc của khối u còn sót lại; phẫu thuật và xạ - hóa trị còn ảnh hưởng tới hệ thống miễn dịch của cơ thể…

Hơn nữa, những phương pháp điều trị đơn nhất này không đủ để điều trị triệt để, tác dụng phụ lớn, tỉ lệ chữa khỏi cực thấp, khiến cho nhiều bệnh nhân ung thư mất đi sự tự tin để điều trị.

Với sự phát triển không ngừng của kĩ thuật Y học trong thế kỉ 21, ngày càng nhiều những ca bệnh khó được điều trị, thậm chí là chữa khỏi. Vậy thì ung thư có chữa khỏi được không, ngoài phương pháp phẫu thuật, xạ trị và hóa trị ra, liệu còn phương pháp nào tốt hơn không?

Theo giáo sư Bành Hiểu Xích giám đốc Bệnh viện ung bướu Hiện Đại Quảng Châu, điều trị miễn dịch sinh học là kĩ thuật điều trị ung thư thứ tư tiếp sau phẫu thuật, xạ trị , hóa trị.

Phương pháp này ngày càng được mọi người hiểu và công nhận, không chỉ đối với ung thư giai đoạn đầu, điều trị miễn dịch sinh học cũng có hiệu quả khá tốt với ung thư giai đoạn giữa và muộn.

Tái phát và di căn sau khi phẫu thuật là một trong những vấn đề khó giải quyết, lúc này , bệnh tình của bệnh nhân đa số là khá nghiêm trọng, vì vậy phẫu thuật, xạ trị hay hóa trị đều đã không thể phát huy hết tác dụng.

Trong khi đó, điều trị miễn dịch sinh học sử dụng công nghệ sinh học và các tác nhận sinh học, lấy tế bào miễn dịch từ chính cơ thể bệnh nhân, tiến hành cấy ghép và nuôi dưỡng, sau đó truyền trở lại cơ thể bệnh nhân, giúp tăng cường chức năng miễn dịch, kháng ung thư, phát huy hiệu quả điều trị.

Bà NaHa 66 tuổi, tới từ Dhaka, Bangladesh, 5 năm trước bác sĩ tại địa phương chẩn đoán bà bị ung thư túi mật, đã phẫu thuật cắt bỏ. 1 năm trước, do cảm thấy đau bụng trên bên phải, đi tới bệnh viện địa phương kiểm tra, thì phát hiện bà bị ung thư biểu mô tuyến biệt hóa thấp di căn. Sau đó gia đình đưa bà sang Singapore kiểm tra PET-CT, kết quả cho thấy bà bị ung thư túi mật di căn gan.

Bà đã làm nhiều lần hóa trị ở bệnh viện Bangladesh, nhưng khối u không nhỏ đi mà tác dụng phụ của hóa chất quá lớn khiến bà Naha không thể tiếp tục chịu đựng, do đó, vào tháng 6 năm 2012, bà đã sang Bệnh Viện Ung Bướu Hiện Đại Quảng Châu điều trị.

Tại đây, bác sĩ tiến hành kiểm tra và kết luận bà bị ung thư túi mật di căn gan, hạch thượng đòn trái. Theo bệnh tình của bà, các chuyên gia của Bệnh Viện Ung Bướu Hiện Đại Quảng Châu dưới sự chỉ đạo của giáo sư Bành Hiểu Xích, đã đưa ra phác đồ điều trị tổng hợp gồm điều trị miễn dịch sinh học + cấy hạt phóng xạ + can thiệp mạch, để giúp cải thiện bệnh tình của bà NaHa.

Qua 2 lần điều trị, miễn dịch sinh học với tác dụng giúp hồi phục chức năng miễn dịch, tình trạng bệnh của bà NaHa đã cải thiện rõ rệt, hiện nay sức khỏe và tinh thần ổn định, có chuyển biến tốt.

Theo tìm hiểu, phương pháp điều trị miễn dịch sinh học phù hợp với nhiều khối u thực thể, nếu so sánh với xạ trị , hóa trị, thì điều trị miễn dịch sinh học có ưu điểm : ít tác dụng phụ, có tác dụng trong phạm vi rộng, đặc biệt là thích hợp với những u ác tính đã di căn hoặc đa ổ.

Mục đích điều trị miễn dịch sinh học rất rõ ràng, không gây ảnh hưởng tới các tế bào lành lặn, giúp bệnh nhân ung thư giai đoạn muộn có thể kéo dài thời gian phát triển bệnh, kéo dài tuổi thọ.

Bệnh "vảy nến" có phải là bệnh truyền nhiễm hay không?

Bệnh "vảy nến" có phải là bệnh truyền nhiễm hay không?
Ai dễ mắc, có di truyền?
Bệnh vảy nến biểu hiện trên da bằng các mảng đỏ có giới hạn rõ và đóng vảy. Khi đè lên thì màu đỏ này biến mất. Các mảng đỏ từ vài cm đến hàng chục cm, có phủ vảy màu trắng đục mà khi cạo ra thì nó rớt vụn giống như sáp đèn cầy. Các thương tổn này được phân bổ đối xứng ở rìa chân tóc, da đầu, cùi chỏ, đầu gối, vùng xương cụt. Bệnh không đau, có thể có ngứa với mức độ ít nhiều tùy theo từng người
Trong trường hợp nặng, bệnh có thể gây hư móng, đau khớp, biến dạng  khớp, nổi mủ từng vùng hoặc toàn thân và làm cả người bị đỏ da không hồi phục.
Bệnh gặp ở mọi lứa tuổi (từ trẻ sơ sinh đến các cụ già với tỷ lệ nam và nữ ngang nhau). Bệnh này có tính di truyền, nếu trong gia đình chỉ có hoặc cha hoặc mẹ  bị thì khoảng 8% con sẽ mắc bệnh, còn nếu cả cha và mẹ cùng bị vảy nến thì tần suất các con mắc bệnh là 41%.

Bệnh không lây, nhưng chữa không hết
Yếu tố miễn dịch được cho là nguyên nhân chính gây ra bệnh vảy nến. Thêm vào đó, yếu tố di truyền, các bất thường về sinh hóa, chấn thương tâm lý, thuốc… cũng là các yếu tố gây khởi phát, tái phát hoặc làm bệnh nặng thêm. Bệnh này không lây lan. Nhưng các yếu tố làm bệnh nặng hơn là nhiễm liên cầu trùng, nhiễm siêu vi trùng, stress, chấn thương tâm lý…
Do nguyên nhân sinh bệnh phức tạp, vảy nến là một trong những bệnh về  da khó chữa hết hẳn. Việc tái phát bệnh thường gây chán nản trong tâm lý người bệnh. Việc trị liệu chỉ giúp cải thiện chất lượng cuộc sống, giúp thuyên giảm các biểu hiện ngoài da, giảm nguy cơ dẫn đến các biến chứng nặng nề, khó chữa như tổn thương khớp, vảy nến mủ hoặc bệnh cảnh đỏ da toàn thân.
Việc phòng bệnh nhằm giúp ngăn chặn sự trầm trọng của bệnh hơn là ngăn bệnh không xảy đến với mình. Biết cách chế ngự stress, giữ cho sức khỏe tốt, trị vảy nến ngay từ khi thương tổn da còn ít theo các hướng dẫn của thầy thuốc chuyên khoa là những việc làm mang lại hiệu quả tốt.
Bệnh nhân phải hiểu được tinh thần sống chung với bệnh, rèn luyện thể lực, vui chơi giải trí lành mạnh, ăn uống đầy đủ dưỡng chất vì người có bệnh thường bị mất đạm qua lượng vảy tróc ra hằng ngày. Chỉ dùng thuốc theo chỉ dẫn của thầy thuốc, không được tự trị lấy!

March 15, 2013

Thành công điều trị ung thư gan biểu mô tế bào


Bệnh viên TƯQĐ 108 đã thành công trong điều trị ung thư gan biểu mô tế bào

"Chi phí cho một ca điều trị hoá tắc mạch bằng vi cầu khoảng 45 – 50 triệu đồng, tuy nhiên cũng kỹ thuật này ở một số nước trong khu vực như Singapore, Thái Lan…thì người bệnh sẽ phải chi phí hơn thế nhiều lần"

Hơn 30 bệnh nhân bị ung thư biểu mô tế bào gan không còn chỉ định phẫu thuật đã được các bác sĩ Bộ môn – Khoa Nội tiêu hóa (A3) Bệnh viện TWQĐ 108 can thiệp thành công kỹ thuật hóa tắc mạch với hạt vi cầu điều trị ung thư biểu mô tế bào gan (UTBMTBG). Đây là một phương pháp điều trị UTBMTBG mới được thực hiện và công bố gần đây tại các nước Âu Mỹ và lần đầu tiên đưa vào ứng dụng ở nước ta.

Ghi nhận từ ca bệnh đầu tiên

Bác Võ Văn Đ., 70 tuổi (Hà Nội) không giấu nổi vui mừng khi biết mình đã được các bác sĩ Bộ môn - Khoa nội Tiêu hóa (A3), Bệnh viện TWQĐ 108 can thiệp thành công kỹ thuật mới điều trị UTBMTBG cho mình, đây là khối u có kích thước gần 8cm sau điều trị bằng kỹ thuật hóa tắc mạch vi cầu đã nhỏ đi chỉ còn 3cm. Theo lời kể của bệnh nhân, ông có tiền sử viêm gan B mạn, được phát hiện và chẩn đoán UTBMTBG từ năm 2004. Ông đã được điều trị bằng phương pháp tiêm ethanol qua da và bệnh ổn định 7 năm nay.

Tuy vậy, trong lần kiểm tra sức khỏe định kỳ năm 2011, bác sĩ phát hiện ông có khối u gan tái phát với kích thước 8cm ở hạ phân thùy IV, tăng sinh mạch mạnh. Đối với căn bệnh UTBMTBG, để điều trị cho người bệnh đòi hỏi phải được phát hiện sớm và phương pháp phẫu thuật cắt bỏ khối u vẫn là hiệu quả nhất. Khi bệnh nhân đã có triệu chứng lâm sàng như đau vùng gan hoặc gày sút cân nhanh thì đây thường là giai đoạn bệnh tiến triển và phương pháp điều trị tạm thời cơ bản là hóa tắc mạch qua đường động mạch hay còn gọi là phương pháp hóa tắc mạch truyền thống.

Tuy nhiên, từ thực tiễn 10 năm nghiên cứu điều trị bệnh UBMTBG bằng phương pháp này, PGS.TS. Mai Hồng Bàng - Phó Giám đốc Bệnh viện, chủ nhiệm Bộ môn Nội tiêu hóa - chủ trì việc triển khai kỹ thuật hóa tắc mạch tại BV cho biết: “Phương pháp hóa tắc mạch truyền thống có những hạn chế nhất định, đó là tỷ lệ hoại tử hoàn toàn khối u thấp, tác dụng phụ và biến chứng sau điều trị khá nặng nề và để giữ vững kết quả thì phải điều trị nhắc lại nhiều lần. Vì thế, chúng tôi quyết tâm ứng dụng những kỹ thuật hóa tắc mạch mới được thực hiện và công bố gần đây tại các nước Âu Mỹ, đó là kỹ thuật hóa tắc mạch với hạt vi cầu để điều trị bệnh UTBMTG – một bệnh đang rất phổ biến tại Việt Nam”.



Ngày 3/6/2011, bệnh nhân Đ. đã được chỉ định điều trị UTBMTBG bằng phương pháp hóa tắc mạch với hạt vi cầu DC Beads (DCB). Sử dụng hạt DCB với 2 loại kích cỡ: 1ml loại hạt đường kính 100 - 300 micromet và 1ml loại hạt đường kính 500 - 700 micromet. Mỗi loại kích cỡ hạt được tải với 37,5mg doxorubicin (hóa chất chống ung thư). Thời gian tải 60 phút cho loại kích cỡ nhỏ và 90 phút cho loại kích cỡ lớn… Sau can thiệp, bệnh nhân chỉ nằm viện 5 ngày và xuất viện trong tình trạng sức khỏe tốt, ăn ngủ bình thường, không sốt, hết đau vùng gan, men gan gần như bình thường và hiện nay vẫn có thể chơi thể thao hàng ngày. Đây là bệnh nhân đầu tiên được can thiệp bằng phương pháp này và đáp ứng điều trị tốt.

Đến nay, Bộ môn – Khoa nội tiêu hóa, Bệnh viện TWQĐ 108 đã thực hiện thành công kỹ thuật hóa tắc mạch với hạt vi cầu cho hơn 30 bệnh nhân UTBMTBG và diễn biến tình trạng bệnh của đa số các bệnh nhân đều tốt. Những bệnh nhân đáp ứng tốt với phương pháp điều trị này đều có kích thước khối u đã được thu nhỏ so với trước khi điều trị.

Kỹ thuật hóa tắc mạch vi cầu không chỉ được áp dụng cho bệnh nhân bị UTBMTBG không còn chỉ định phẫu thuật và từ chối phẫu thuật mà còn được chỉ định điều trị cho bệnh nhân ung thư gan thứ phát, ung thư đường mật trong gan và các khối u tăng sinh mạch ở gan khác..
Khắc phục nhược điểm của kỹ thuật hóa tắc mạchtruyền thống


Về phương pháp điều trị mới này, TS. Nguyễn Tiến Thịnh – người trực tiếp thực hiện kỹ thuật và theo dõi điều trị cho biết: “Hóa tắc mạch với hạt vi cầu là một kỹ thuật hóa tắc mạch mới, khắc phục được những nhược điểm chính của kỹ thuật hóa tắc mạch truyền thống nhờ sử dụng tác nhân tắc mạch cũng đồng thời là chất mang và phóng thích thuốc một cách bền vững - đó là các hạt vi cầu DCB”.

Hiện nay, điều trị ung thư gan tại một số nước châu Âu và châu Á đã công nhận kỹ thuật hóa tắc mạch vi cầu là phương pháp ưu việt, hiệu quả cao và có khoảng trên 30% số bệnh nhân UTBMTBG được điều trị theo phương pháp này.

Hạt vi cầu DCB là hạt hình cầu, có tính mềm, đàn hồi được bảo quản dưới dạng dung dịch phosphat, cho phép duy trì nồng độ thuốc ổn định trong khối u, đồng thời giảm nồng độ thuốc khuếch tán ra tuần hoàn ngoại vi. Hạt DCB là một dạng hạt vi cầu được thiết kế đặc hiệu cho kỹ thuật hóa tắc mạch, có thể được chuyển tải cùng với hóa chất chống ung thư như doxorubicin. Sự gắn kết và phóng thích hóa chất được thực hiện theo cơ chế trao đổi ion: hạt DCB mang điện tích âm còn hóa chất chống ung thư mang điện tích dương nên khi trộn lẫn với nhau chúng sẽ được gắn kết chặt chẽ.

Khi đưa vào trong khối u (môi trường plasma giàu điện tích dương) thì hóa chất được phóng thích từ từ theo cơ chế cạnh tranh trao đổi ion. Chính vì thế, hóa chất trong khối u được duy trì ở nồng độ cao và kéo dài tới 14 ngày sau điều trị can thiệp. Như vậy, khi nồng độ hóa chất trong khối u càng cao và kéo dài thì khả năng diệt tế bào ung thư càng chắc chắn và mạnh mẽ. Bản thân hạt DCB với những kích cỡ khác nhau từ 100 – 900 micromet sẽ gây ra hiện tượng tắc động mạch nuôi khối u.

Các hạt DCB kích thước nhỏ gây tắc vi tuần hoàn khối u và những hạt DCB lớn hơn gây tắc tiểu động mạch và những nhánh động mạch nhỏ nuôi u gây hiện tượng thiếu máu u nặng nề, hậu quả khối u bị bỏ đói và chết. Tính ưu việt của hạt vi cầu có tác dụng làm giảm số lần điều trị nhắc lại, giảm số lần nhập viện, giảm ngày nằm điều trị, hạn chế tác dụng phụ do hóa chất chống ung thư gây ra. Người bệnh sau can thiệp bằng phương pháp này có thời gian nằm viện trung bình 1 tuần, còn thực hiện bằng phương pháp hóa tắc mạch truyền thống do tác dụng phụ của thuốc nên thời gian nằm viện sẽ phải kéo dài hơn, nguy cơ tổn thương đến các nhu mô gan lành cũng cao hơn.

Tuy nhiên, hiệu quả của phương pháp này còn phụ thuộc vào sự chỉ định phù hợp đối với từng ca bệnh cụ thể; không phải trường hợp nào cũng có thể áp dụng tốt phương pháp điều trị này. Cũng như hóa tắc mạch truyền thống, phương pháp này được chỉ định cho các trường hợp UTBMTBG không còn chỉ định phẫu thuật, khối u gan tăng sinh mạch với chức năng gan còn tương đối khá và không có các chống chỉ định đặc biệt.

Xem thêm: chua benh ung thu | thuoc tri benh gan | day bung kho tieu | tac hai cua ruou

March 13, 2013

Thuốc trị bệnh gan từ dược liệu

Loại thuoc tri benh gan từ dược liệu

Gan tuy chiếm 3% khối lượng cơ thể nhưng là một cơ quan quan trọng về chuyển hóa các chất giúp cơ thể tiêu hóa thức ăn và các yếu tố vi lượng, điều hòa đường huyết, khử độc.

Khi bị tổn thương các chức năng trên không thực hiện đầy đủ sẽ ảnh hưởng đến toàn bộ cơ thể. Trên thị trường có rất nhiều thuốc điều trị về gan, một trong số các loại thuốc điều trị về gan có hiệu quả an toàn phải kể đến Boganic, hoạt chất được chiết xuất từ thảo dược với nguồn nguyên liệu sẵn có giá thành rẻ, bệnh nhân dễ dung nạp, không có tác dụng phụ, Boganic là thuốc không cần mua theo đơn. Công ty CP Traphaco sau nhiều năm nghiên cứu ứng dụng và đã trải qua nhiều thử nghiệm lâm sàng, Công ty cổ phần Traphaco đã sản xuất loại BOGANICbằng các nguyên liệu thảo dược đã đáp ứng các yêu cầu thuốc về gan, thuốc dùng an toàn tác dụng không mong muốn (tác dụng phụ) không đáng kể.

Boganic có thành phần
Cao Actisô: 0.100 g

Cao Biển súc: 0.075 g

Bột Bìm bìm biếc: 0.075 g

Actisô: chứa các dược chất chính: Cynarin, các polyphenol, đường inulin, muối khoáng.

        - Cynarin có tác dụng tăng mật, tăng lực, kích thích ăn ngon, trợ tim, lợi tiểu, chống độc.

        - Các polyphenol có tác dụng giảm cholesterol huyết, bảo vệ gan.

        - Insulin cần cho người bị đái đường

Người ta dùng Actisô để chữa: thiểu năng gan, chứng vàng da, chống tăng cholesterol huyết, vữa xơ động mạch.

Biển súc: chứa tinh dầu, Avicularin, Quexetin, Emodin. Biển súc có tác dụng lợi tiểu, tiêu viêm, cầm ỉa chảy và diệt ký sinh trùng đường ruột. Được dùng điều trị viêm bàng quang, bí đái, đái buốt, đái dắt, lỵ trực trùng, hoàng đản, da lở ngứa, mụn nhọt, trĩ, bạch đới.

Bìm bìm: chứa Glucosid là phacbitin, có tác dụng nhuận tràng, thông tiểu, sát trùng.

Boganic là sự phối hợp độc đáo giữa 3 vị thuốc có tính chất từ thiên nhiên làm tăng hiệu lực của thuốc với mục tiêu trị một số chứng bệnh về gan, mật theo cơ chế : tăng tiết dịch mật, phục hồi chức năng gan, chống viêm, giải độc, chống dị ứng, lợi tiểu

Xem thêm: tác hại của rượu | đầy bụng khó tiêu | chua benh ung thu | thuoc dieu tri ung thu gan

Một số cây thuốc nam trị bệnh gan rất hiệu quả

Có rất nhiều loại cây thuoc tri benh gan rất hiệu quả mà lại dễ tìm như một số loại cây sau:


Cây chó đẻ giúp chữa bệnh gan rất tốt



Nhiều người chỉ dùng cây Chó đẻ răng cưa để chua benh viem gan, cách sử dụng như vậy chưa thật sự tốt và hiệu quả không cao, xin giới thiệu một bài thuốc, mà hầu như nhiều người đã dùng đều không chê vào đâu được, những trường hợp bị ảnh hưởng của bệnh gan gây nám da –nhất là vùng mặt, uống bài thuốc nầy thì da sẽ hết nám hoàn toàn, tóc sẽ đen hơn, người sẽ khoẻ mạnh hơn,... Có trường hợp, một người bị bệnh gan- BS cho xuất viện với chẩn đoán K gan.


Cây Mần trầu - Eleusine indica L. họ: Lúa- Gramineae



Chữa viêm gan, viêm thận, viêm bàng quang, đái vàng thẫm, bạn có thể dùng cấy màn trầu lấy cả rễ nhé bạn, và đem đi giã vắt lấy nước uống, hoặc bạn có thể giã vè cho một chút muốn vào đắp vào tay chân hay bất cứ chỗ nào trên cơ thể bạn nếu bạn bị sốt vì khi bị viêm gan có thể kéo theo là những cơn sốt đó bạn.


Cây Mã đề -chữa bệnh viêm gan nóng gan



Bạn có thể lấy cây mã đề nhỏ cả gốc lẫn rẽ sau đó rửa sạch mang đi phơi sao hoạc sao lên rồi cho vào đun lấy nước uống nó có tác dụng giúp giải độc tố trong gan và chữa bệnh viêm gan da vàng đó bạn.
Cây mã đề ngoài tác dụng chữa bệnh gan ra còn có rất nhiều tác dụng như
Mã đề cũng được sử dụng trong các dược phẩm trị mụn nhọt và bỏng. Thuốc dạng dầu chế từ bột mã đề khi đắp lên mụn nhọt có thể làm mụn đỡ nung mủ và viêm tấy. Còn thuốc mỡ bào chế từ cao đặc mã đề đã được sử dụng để điều trị các ca bỏng 2-45% diện tích da, đạt kết quả tốt. Bệnh nhân cảm thấy mát, dễ chịu, không xót, không nhức buốt, dễ thay bông và bóc gạc. Vết bỏng đỡ nhiễm trùng, ít mủ, giảm mùi hôi thối, lên da non tốt, thịt phát triển đều, không sần sùi. Bệnh nhân giảm được lượng thuốc kháng sinh dùng toàn thân.

Có rất nhiều cach chua benh viem gan bằng các loại thảo dược không chỉ có những cây thuốc nam trên