August 9, 2013

Tế bào gốc trong sản xuất dược phẩm

Theo nguồn thông tin tiếp cận được từ cơ sở dữ liệu Wipsglobal (WIPS), lượng sáng chế đăng ký về nghiên cứu và ứng dụng tế bào gốc hiện có khoảng 10.525 sáng chế… Bà Phạm Thị Minh Phương, Trung tâm Thông tin KH-CN TPHCM (Sở KH-CN), cho biết như vậy tại hội thảo tế bào gốc - tiềm năng và ứng dụng.

Hiện có hơn 38 quốc gia nộp đơn đăng ký sáng chế về công nghệ tế bào gốc trong y học. Trong đó, các quốc gia nộp nhiều đơn đăng ký sáng chế nhất về vấn đề này gồm Mỹ (987 sáng chế), Hàn Quốc (138 sáng chế), Nhật Bản (108 sáng chế), Đức (65 sáng chế)…

Lịch sử về đăng ký sáng chế nghiên cứu tế bào gốc cho thấy, năm 1979 có sáng chế đăng ký về nghiên cứu kỹ thuật phân lập, nuôi cấy, nhân rộng tế bào gốc. Đến năm 1984, bắt đầu có sáng chế đăng ký về ứng dụng tế bào gốc trong y học. Sáng chế này đề cập tới việc ứng dụng tế bào gốc trong việc tạo máu hỗ trợ điều trị bệnh thiếu máu do tuổi già hoặc rối loạn chức năng tạo máu. Qua lịch sử phát triển, những năm thập niên 80, 90, đăng ký sáng chế về công nghệ tế bào gốc trong y học chưa nhiều, chỉ 189 sáng chế (trung bình mỗi năm có khoảng 12 sáng chế đăng ký), nhưng đến giai đoạn 2000-2012, lượng sáng chế bắt đầu tăng cao với 2.886 sáng chế. Trung bình mỗi năm có khoảng 249 sáng chế đăng ký…

Bà Phạm Thị Minh Phương cho biết thêm, trên thế giới hiện có 4 hướng nghiên cứu về tế bào gốc. Đầu tiên nghiên cứu ứng dụng tế bào gốc trong sản xuất dược phẩm, chiếm tỷ lệ 87,57%. Kế đến nghiên cứu ứng dụng tế bào gốc trong việc tạo ra các bộ phận nhân tạo đưa vào cơ thể con người, chiếm tỷ lệ 3,35%. Hướng nghiên cứu thứ ba gồm những nghiên cứu ứng dụng tế bào gốc liên quan tới phẫu thuật, cấy ghép chiếm tỷ lệ 1,98%. Còn hướng nghiên cứu thứ tư thuộc về nghiên cứu các công cụ dụng cụ, phương pháp cho phẫu thuật, chẩn đoán liên quan tới tế bào gốc, chiếm tỷ lệ 1,82%.

Trong 4 hướng nghiên cứu, ứng dụng tế bào gốc trong sản xuất dược phẩm là hướng nghiên cứu có nhiều sáng chế nhất. Tuy nhiên trong những năm gần đây, tình hình đăng ký sáng chế thuộc hướng nghiên cứu này có xu hướng giảm. Trong khi đó các hướng nghiên cứu còn lại, ứng dụng tế bào gốc trong phẫu thuật, chẩn đoán, bộ phận nhân tạo có nhiều biến động, song đang theo xu hướng tăng dần trong những năm gần đây.

Nguồn: Internet

Xem thêm: ghep te bao goc

Nhưng hươu có thể điều trị viêm gan

Nhung hươu từ ngàn xưa đã được Đông y sử dụng như một vị thuốc quý, một trong tứ thượng dược “sâm, nhung, quế, phụ”. Nhung hươu cũng được y học phương Tây sử dụng trong bào chế thuốc và y học hiện đại vẫn tiếp tục nghiên cứu những công dụng mới của lộc nhung.




Tăng cường kháng thể, thải trừ siêu vi

Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) thì Việt Nam là một trong 9 nước ở vùng Tây Thái Bình Dương có tỷ lệ viêm gan cao. Số liệu của Hội gan mật Việt Nam cho thấy, nước ta có khoảng 12-16 triệu người nhiễm virus viêm gan B, 4,5 triệu người nhiễm vius viêm gan C.

Những con số trên cho thấy, viêm gan đang là một nguy cơ lớn với sức khỏe người Việt. Do đó, việc nghiên cứu để tìm ra những vị thuốc điều trị viêm gan vẫn luôn là mối quan tâm lớn của y học, trong đó, gần đây, nhung hươu đã bắt đầu được sử dụng trong dieu tri viem gan siêu vi.

Mới đây, Viện Y dược học Dân tộc Tp.HCM đã có hai công trình nghiên cứu về tác dụng của lộc nhung với sức khỏe, trong đó công trình nghiên cứu từ tháng 2/2007 đến tháng 9/2009 khi nghiên cứu trên hệ miễn dịch của bệnh nhân viêm gan siêu vi B, C cho thấy, nhung hươu tác dụng tăng cường đáp ứng miễn dịch, tăng số lượng tế bào miễn dịch đặc hiệu CD4, CD8 ở đa số bệnh nhân từ đó tăng khả năng ức chế siêu vi C, thải trừ siêu vi, làm giảm men gan rõ rệt, giúp bệnh nhân ăn ngon, mau hồi phục.

Ích huyết

Công trình nghiên cứu còn lại của Viện Y dược cũng chứng minh tác dụng bổ máu của nhung hươu trên bệnh nhân thiếu máu sau hóa trị ung thư.

Qua nghiên cứu cho thấy, nhung hươu có tác dụng cải thiện rõ rệt trên các chứng thiếu máu ở đa số bệnh nhân, các rối loạn chức năng liên quan đến thiếu máu như mất ngủ, đau nhức, chứng yếu mệt chứng rối loạn tiêu hoá …của người bệnh cũng được cải thiện.

Đặc biệt sau khi sử dụng nhung hươu, bệnh nhân ung thư được cải thiện rõ rệt về số lượng tăng sinh của cả 3 dòng máu giúp bệnh nhân khỏe hơn và mau hồi phục đặc biệt sau hóa trị hoặc xạ trị.

Nguồn : Internet


Chế phẩm công nghệ sinh học giúp giải độc gan Naturenz

Thông tin thêm về chế phẩm công nghệ sinh học giúp giải độc gan Naturenz:

Naturenz là sản phẩm có nguồn gốc hoàn toàn tự nhiên

Được sản xuất theo đề tài nghiên cứu khoa học của Viện Công Nghệ Sinh Học, Viện Hàn lâm Khoa Học và Công Nghệ Việt Nam, thuốc giải độc gan Naturenz là tổng hợp các chiết xuất từ đu đủ, củ cải, mướp đắng, lê-ki-ma và các chất được thủy phân từ nhộng tằm tạo thành các chất chống ô-xy hóa và các enzym thiên nhiên, có tác dụng tăng cường thải độc, phòng ngừa và dieu tri viem gan.

Naturenz được sử dụng cho những người làm việc trong môi trường độc hại, nhiễm chất độc hoá học, những người thường xuyên uống rượu bia, hút thuốc lá, những người bị nổi mụn, da sần sùi, khô, nứt nẻ, sạm, nám. Ngoài ra, Naturenz còn có tác dụng tốt trong hỗ trợ điều trị cho bệnh nhân viêm gan do nhiễm siêu vi, gan nhiễm mỡ, nhiễm độc gan, suy giảm chức năng gan.


Thảo dược Trung Quốc - mầm mống gây bệnh ung thư

Chiết xuất thảo dược được sử dụng trong các bài thuốc Trung Hoa chữa bệnh viêm khớp, bệnh gout (gút) và viêm được cho là có mối liên hệ trực tiếp đến mầm mống ung thư.

Dấu hiệu gen của axit aristolochic – có nguồn gốc từ cây nho thuộc họ cây dây leo được tìm thấy trong khối u của 19 bệnh nhân mắc ung thư đường tiết niệu ở Đài Loan.


Các nhà khoa học từ trước đến nay cho rằng axit chính là chất sinh ung thư, nhưng một nghiên cứu gần đây lần đầu tiên chỉ ra nó còn gây ra nhiều đột biến gen hơn là bệnh ung thư phổi do hút thuốc hoặc bệnh ung thư da do nhiễm phóng xạ tia cực tím.

Theo Tạp chí Science Translational Medicine (Mỹ), các khối u ở người phơi nhiễm với thảo dược có khoảng 150 đột biến/megabase, trong khi chỉ có 8 đột biến ở các bệnh ung thư phổi do hút thuốc và 111 đột biến ở khối u ác tính do nhiễm tia cực tím. Hiểu rõ hơn về dấu hiệu axit sẽ giúp các nhà nghiên cứu phát hiện sự liên quan của các thảo dược với bệnh ung thư nội tạng.

Giáo sư Kenneth Kinzler , khoa ung thư học của Trung tâm ung thư Johns Hopkins Kimmel thuộc Trung tâm Di truyền học ung thư và Điều trị Ludwig cho biết “Giải trình tự gen cho phép chúng tôi hạn chế sự phơi nhiễm của axit aristolochic trực tiếp với bệnh nhân mắc bệnh ung thư”.

“Công nghệ hiện đại đã cho chúng tôi nhận biết các dấu hiệu đột biến rõ nét để khẳng định một độc tố nhất định nào đó gây ra bệnh ung thư”.

Sự liên hệ giữa ung thư và các loại thảo dược dẫn đến lệnh cấm các sản phẩm có chứa axit aristolochic tại châu Âu và Bắc Mỹ vào năm 2001, sau đó ở châu Á năm 2003.

Nguồn: Internet

Xem thêm: chua benh ung thu

Thuốc có thể làm thay đổi chức năng gan gây tổn thương gan

Thuốc có thể làm thay đổi chức năng gan, tổn thương gan, biểu hiện bằng các triệu chứng lâm sàng, dẫn đến tàn phế, đe dọa tính mạng.

Mỗi loại thuốc gây ra một kiểu tổn thương gan, mật nhất định.

Việc gây hại cho gan của thuốc còn phụ thuộc vào loại thuốc, khả năng tự hồi phục gan của người bệnh. Mặc dù tỷ lệ này nhỏ nhưng không thể xem thường...Mặc dù tăng nồng độ men gan aminotransferase là dấu hiệu phản ánh tổn thương gan nhưng đây không phải là căn cứ “dự báo” hay “chỉ điểm” độc tính trầm trọng. Bởi vì gan có khả năng thích ứng, hồi phục. Ví dụ, lần đầu dùng thuốc chống lao isoniazid thấy tăng aminotransferase, nhưng những lần sau có khi không lặp lại. Trên súc vật, statin làm tăng aminotransferase gây tổn thương gan nặng, nhưng trên người hiếm khi gây độc gan đáng kể trên lâm sàng. Trong khi đó, các triệu chứng mệt mỏi, chán ăn, buồn nôn, khó chịu ở hạ sườn phải, nước tiểu sậm màu... lại là những bằng chứng đầu tiên của độc tính gan. Thiếu sót phổ biến là có lúc “cảnh giác quá mức” khi thấy sự tăng aminotransferase (do phòng xét nghiệm cung cấp) nhưng lại quên dặn người bệnh báo cáo ngay những bằng chứng đầu tiên của độc tính gan để xử lí. Tất nhiên, cũng có trường hợp cả hai điều này xảy ra cùng lúc nhưng dẫu sao thì người bệnh vẫn có điều kiện quan sát các triệu chứng lâm sàng ban đầu hơn và việc căn dặn người bệnh là cần thiết.

Xác định tổn thương gan do thuốc cần xét nghiệm, quan sát lâm sàng, xem xét các điều kiện liên quan. Do vậy, không phải tuyến nào cũng làm được.

Thuốc nào gây tổn thương gan?

Mỗi thuốc gây ra một kiểu tổn thương gan nhất định. Dựa vào đó, người ta phân loại ra từng nhóm cho dễ nhận biết. Dưới đây là các nhóm thuốc gây độc cho gan thường gặp:

Nhóm gây tổn thương tế bào gan (tăng alanin aminotranferase): bao gồm các thuốc kháng khuẩn, nấm (ketoconazol, tetracyclin, trovafloxacin), chống lao (isoniazid, rifampicin, pyrazinamid), chữa tăng huyết áp (lisinopril, losartan, amiodaron), giảm đau chống viêm (paracetamol, allopuriol, các kháng viêm không steroid), chống tiết acid (omeprazol), trầm cảm (fluoxetin, proxetin, sertralin), chống mỡ máu (statin), thuốc chống béo (bupropion)...

Nhóm thuốc làm tắc mật (tăng alkalinphophatase+tăng bilirubim toàn phần), bao gồm các thuốc kháng khuẩn, nấm (amoxicilin+acid clavulanic, erythromycin, terbinafin), tâm thần (chlopromazin, mirtarazin, trầm cảm ba vòng), chống dị ứng (phenothiazin), tăng huyết áp (irbesartan), chống cục máu đông (chlopidogen), thuốc chứa estrogen (viên tránh thai, estrgoen), steroid đồng hóa...

Nhóm vừa làm tổn thương tế bào gan vừa làm tắc mật (cùng lúc làm tăng alanin aminotranferase và alkalinphophatase), bao gồm các thuốc kháng sinh (clindamycin, bactrim, sulfonamid, nitrofurantoin), chống động kinh (phenobarbital, phenytoin, carbamazepin), chữa tăng huyết áp (catopril, enalapril,verapamil), chống trầm cảm (amitriphtylin, trazodon), chống dị ứng (cyproheptadin), chữa ung thư tuyến tiền liệt (flutamid)...

Việc chia nhóm chỉ là tương đối. Cách gây độc cho gan của từng loại thuốc còn phức tạp hơn nhiều. Có thể bao gồm một hay cùng lúc nhiều cách như phá vỡ màng tế bào, làm tế bào chết, tạo ra các phức mới, gây ra các phản ứng miễn dịch, ức chế chuyển hóa thuốc của tế bào, gián đoạn các bơm vận chuyển dẫn đến tắc mật...

Biểu hiện độc trên gan phụ thuộc rất nhiều yếu tố: người lớn và phụ nữ hay gặp hơn là trẻ em, nam giới. Béo phì, suy dinh dưỡng hay gặp hơn người không có các bệnh này. Người có tính đa hình di truyền (biến đổi di truyền) thường dễ mắc hơn. Uống rượu trong một số trường hợp làm tăng độc tính gan của thuốc. Ví dụ uống rượu làm cạn kiệt nguồn gluthation (một chất làm chuyển hóa paracetamol) nên làm tăng độc tính gan của paracetamol. Nhưng cũng cần phân biệt có trường hợp rượu lại là thủ phạm chính chứ không phải là thuốc.

Khắc phục như thế nào?

Việc tăng men gan chưa hẳn là đã chuyển thành tổn thương gan. Vì vậy, khi mới chỉ enzym gan tăng, không nhất thiết phải ngừng thuốc nhưng cần theo dõi chặt chẽ. Khi có các biểu hiện lâm sàng: vàng da, suy gan cấp, phải ngừng thuốc ngay để tránh các diễn biến nghiêm trọng. Kết hợp cả hai yếu tố là cách tốt nhất để rút ra cách xử lí phù hợp. Đối với một thuốc đã gây độc thì nhất thiết không thử dùng lặp lại. Dùng lặp lại sẽ tổn thương tái phát nặng hơn.

Độc tính tổn thương tế bào gan cấp thường gặp là mệt mỏi, đau bụng, vàng da, đặc biệt, sự kéo dài và kèm theo bệnh não là một biểu hiện rất nặng, cần phải điều trị tại bệnh viện. Một thuốc chỉ gây độc cho gan ở liều xác định (thường cao gấp nhiều lần liều thường dùng và do dùng kéo dài), vì vậy, chỉ dùng thuốc theo liều lượng và thời gian cho phép.

Cần biết rõ rằng việc dự đoán xảy ra cũng như dự đoán thời gian, độ nặng độc tính gan do thuốc trên từng người bệnh rất khó. Nên với những thuốc đã nằm trong danh mục gây độc cho gan, dù dùng với người bình thường cũng phải cảnh giác.

Nguồn: Internet