September 4, 2013

7 loại thực phẩm tăng nguy cơ ung thư

Ngoài các tác nhân vật lý, hóa chất, môi trường, vi sinh vật, căng thẳng, cảm xúc.. chế độ dinh dưỡng cũng có thể gây ung thư.

Bệnh ung thư cho đến nay kết quả điều trị vẫn chưa thực sự khả quan. Trên con đường đi tìm phương pháp điều trị căn bệnh nan y này, các nhà khoa học cũng tìm hiểu xem những nguyên nhân nào đã dẫn tới sự biến đổi phân chia các tế bào bất thường như vậy. Câu trả lời là, ngoài các tác nhân vật lý, hóa chất, môi trường, vi sinh vật, căng thẳng, cảm xúc... thì chế độ dinh dưỡng cũng là một trong những thủ phạm hàng đầu dẫn tới căn bệnh chết người này.

Từ những nghiên cứu, các nhà khoa học đã đưa ra khuyến cáo về việc cần hạn chế các thực phẩm sau đây:

Chất béo: Người dùng quá nhiều chất béo dễ bị ung thư vú, ruột già hơn. Sự liên quan giữa ung thư ruột già với thực phẩm nhiều chất béo đã được giải thích như sau: acid mật (bile acid) có nhiệm vụ tiêu hóa chất béo. Acid này được vi sinh vật clostridia ở ruột tách ra làm nhiều chất, trong đó có 3-methylchola-threne được coi như có khả năng gây ung thư ruột già. Nếu càng ăn nhiều chất béo thì lượng acid mật tiết ra càng cao, lượng 3 - methylchola - threne càng nhiều, nguy cơ ung thư ruột già rất cao. Còn với bệnh ung thư vú thì ăn nhiều chất béo làm tăng prolactin - những chất được coi như “bạn đồng hành” của ung thư vú.

Những người cùng lúc ăn nhiều chất béo và chất đạm thì nguy cơ ung thư lại càng cao hơn, nhất là ung thư vú, dạ con, thận, ruột già, tụy tạng.

Rượu: Người nghiện rượu, uống rượu nhiều trong thời gian dài rất dễ bị ung thư miệng, thanh quản, thực quản, cuống họng. Xơ cứng gan vì rượu cũng là một trong nhiều nguyên nhân gây ung thư gan. Ở phụ nữ thường xuyên uống rượu, tỉ lệ mắc ung thư vú cao gấp nhiều lần so với người không uống.

Thuốc lá: Dù không là thực phẩm nhưng thuốc lá gắn liền với thói quen sinh hoạt và được dùng với lượng lớn không kém gì thực phẩm. Đã có nhiều dẫn chứng khoa học về việc thuốc lá là nguyên nhân của nhiều loại ung thư ở cả nam và nữ, nhất là ung thư phổi. Có tới 85% tử vong ung thư phổi là do hút thuốc lá. Hút thuốc lá cũng là nguy cơ ung thư miệng, bọng đái, thận, tụy tạng. Người hít khói thuốc dư cũng chịu nhiều rủi ro cho sức khỏe.

Thực phẩm dư hóa chất diệt sâu bọ: Nhiều nghiên cứu cho thấy, một số thuốc diệt sâu bọ là nguy cơ gây ung thư khi con người tiếp xúc lâu với phân lượng cao, như là hít qua phổi, ngấm qua da hoặc lẫn trong thực phẩm.

Gia vị: Hiện nay có cả vài ba ngàn gia vị thực phẩm được sử dụng để bảo quản, tăng mùi vị và màu sắc cho thực phẩm. Theo quy định thì các gia vị này phải đảm bảo an toàn cho người sử dụng, nhưng trên thực tế không ít cơ sở đã dùng các gia vị rất độc hại cho sức khỏe. Chẳng hạn, đường hóa học cyclamate và saccharin đã được cho là làm tăng nguy cơ ung thư bàng quang vẫn được dùng trên 40 quốc gia. Chất nitrit và nitrat (có trong thực phẩm hun khói) nếu dùng nhiều sẽ gây ung thư gan, ruột già...

Thực phẩm nướng hoặc chiên: Quá trình chiên kỹ hoặc chiên đi chiên lại nhiều lần sẽ tạo ra sản phẩm phụ gọi là acrylamide. Acrylamide là một khối u chứa chất độc thần kinh mạnh, có tác dụng phụ không chỉ trên não mà cả đối với hệ thống sinh sản, tiêu hóa. Do đó, tốt nhất là hạn chế ăn các món nướng và chiên. 

Thực phẩm bị mốc: Nhiều người thường cho rằng nấm mốc trong thực phẩm khô đơn giản chỉ là một dạng vi sinh vật vô hại, có thể lau rửa sạch mà không ảnh hưởng gì đến chất lượng thực phẩm.

Tuy nhiên, theo cảnh báo của các chuyên gia, chính những nấm mốc này lại mang mầm bệnh ung thư nguy hiểm đến tính mạng con người. Gạo, lúa mỳ, đậu, ngô, đậu phộng và các loại thực phẩm khác rất dễ ẩm mốc khi bị ô nhiễm, mốc sẽ sản sinh ra chất độc hại gây ung thư là streptozotocin aflatoxin.


Hội thảo điều trị tối ưu viêm gan virus C mạn tính trên bệnh nhân Việt Nam

Ngày 30/8, tại Hà Nội, văn phòng đại diện Hoffmann-La Roche tổ chức Hội thảo khoa học với chủ đề “Điều trị tối ưu viêm gan virus C mạn tính trên bệnh nhân Việt Nam”.

Tham gia hội thảo có TS.BS Đinh Quý Lan - Chủ tịch Hội Gan Mật Việt Nam, GS.H.L.Y.Chan - Giám đốc Viện Tiêu hóa và Trung tâm Gan - Hồng Kông, cùng các chuyên gia gan mật hàng đầu ở Việt Nam.

Tại hội thảo, các chuyên gia đã chia sẻ những kinh nghiệm trong việc ứng dụng những phát triển của y học để giúp bệnh nhân Việt Nam viêm gan virus C mạn tính có nhiều cơ hội lành bệnh hơn.

Theo các chuyên gia, phác đồ điều trị hai thuốc (PEG-IFN 2a và Ribavarin) vẫn là phác đồ phù hợp cho bệnh nhân ở các nước châu Á và Việt Nam, tỷ lệ đạt SVR từ 79-85%. Thuốc nói trên đã có tại Việt Nam.

Cơ hội điều trị viêm gan virus c

Bệnh nhân viêm gan virus C mãn tính có cơ hội khỏi bệnh

Đó là khẳng định của các chuyên gia tại Hội thảo khoa học với chủ đề “Điều trị tối ưu viêm gan virus C mạn tính trên bệnh nhân Việt Nam” tổ chức tại Hà Nội.

Các chuyên gia gan mật trong nước và quốc tế đã thảo luận về những khó khăn trong điều trị viêm gan siêu vi C mạn tính tại Việt Nam, đồng thời, chia sẻ kinh nghiệm chữa bệnh.

Viêm gan virus C mạn tính là 1 trong những nguyên nhân gây xơ gan và ung thư gan, với tỉ lệ tới 4%. Ở Việt Nam, do điều kiện kinh tế, hiểu biết, ý thức chăm sóc về sức khoẻ nên việc tầm soát và điều trị viêm gan virus C mạn tính còn nhiều khó khăn.

Tuy nhiên, theo ông GS. H.L.Y. Chan Giám đốc Viện tiêu hóa và Trung tâm gan (Hồng Kông): Nếu được chẩn đoán xác định kiểu gen, đo độ xơ hóa của gan để lựa chọn phác đồ điều trị thích hợp, thì bệnh nhân vẫn có nhiều cơ hội khỏi bệnh.

Theo các chuyên gia, phác đồ điều trị hai thuốc (PEG-IFN 2a và Ribavarin) vẫn phù hợp cho bệnh nhân ở các nước châu Á và Việt Nam. Đặc biệt, bệnh nhân châu Á đa phần mang gen IL28cc, nên sẽ đáp ứng cao với PEG-IFN 2a/Ribavirin, tỷ lệ đạt SVR từ 79-85%, ngay cả với bệnh nhân VGSVC genotype 1”.

Sốc vì giá thuốc gây ung thư

Ở Ireland, thuốc chua benh ung thu vú có giá hơn 2 tỉ VNĐ/18 tháng, thuốc điều trị ung thư phổi cho người lớn cũng tương đương 1,4 tỷ đồng trong hơn 7 tháng.

Hai loại thuốc chua benh ung thu vú được gọi là Perjeta do Roche sản xuất và thuốc ung thư phổi được gọi là Xalkori của hãng dược phẩm Pfizer được đánh giá là có giá cả quá đắt.

Sở Điều hành Y tế Ireland (HSE) đã được đề nghị ngừng tài trợ cho việc sử dụng của hai loại thuốc ung thư mới do chi phí quá đắt.

Đề nghị này được đưa ra bởi Trung tâm chuyên khảo sát giá thuốc quốc gia Ireland (NCPE) đối với hai loại thuốc điều trị ung thư vú được gọi là Perjeta do Roche sản xuất và thuốc ung thư phổi được gọi là Xalkori của hãng dược phẩm Pfizer.

Đánh giá của NCPE cho hay, thuốc Perjeta làm tăng đáng kể tỷ lệ sống sót trung bình cho bệnh nhân ung thư vú nhưng con số chính xác vẫn chưa chắc chắn ở thời điểm hiện tại. Loại thuốc này được sử dụng cho phụ nữ bị ung thư vú di căn hoặc tái phát tại địa phương, những người đã không được điều trị triệt để hoặc hóa trị trước đó.

Theo NCPE, chi phí của thuốc Perjeta lên tới 74.000 euro (tương đương hơn 2 tỷ đồng) cho mỗi bệnh nhân để điều trị trung bình 18 tháng. Chi phí này quá đắt đỏ đối với bệnh nhân và việc giảm giá thực sự là rất cần thiết.

Trong trường hợp của thuốc Xalkori - thuốc điều trị ung thư phổi cho người lớn, chi phí điều trị cũng lên tới gần 50.000 euro/bệnh nhân (tương đương 1,4 tỷ đồng) trong hơn 7 tháng.

Ở mức giá hiện tại, loại thuốc Xalkori không được đánh giá là phương pháp điều trị quá đắt đỏ để cải thiện tỷ lệ sống của bệnh nhân ung thư.

Trước kiến nghị trên, Bộ Y tế Ireland, HSE và các công ty dược phẩm đã phải ngồi lại với nhau đàm phán và đi đến một thỏa thuận giảm giá đối với một số loại thuốc điều trị ung thư cho bệnh nhân, tiêu biểu là hai loại thuốc trên.


Bạn biết gì về bệnh xơ gan?

Bệnh xơ gan là bệnh mạn tính, tổn thương nặng lan tỏa ở các thùy gan tạo ra mô xơ, cấu trúc các tiểu thùy và mạch máu của gan bị hủy hoại không hồi phục.

Vì sao dẫ đến bệnh xơ gan?

Bệnh xơ gan thường do nhiều yếu tố gây ra như viêm gan virut B, virut B bội nhiễm virut D, virut C; người nghiện rượu: uống nhiều rượu hàng ngày và kéo dài nhiều năm; xơ gan thứ phát do tắc mật không hoàn toàn kéo dài, do sỏi mật, dính hẹp ở ống gan, ống mật chủ, viêm đường mật tái phát; do dùng một số loại thuốc gây tổn thương gan như: oxyphenisatin, clopromazin, INH, rifampycin...; do nhiễm các hóa chất độc hại gan: aflatoxin, dioxin, chất độc thảo mộc hại gan như cây có hạt thuộc họ Senecio và các alcaloit của nó...; do thiếu dinh dưỡng: quá thiếu chất đạm, thiếu vitamin, thiếu các chất hướng mỡ như cholin, lexithin...; do ký sinh trùng như sán máng, sán lá nhỏ...; do bệnh tắc tĩnh mạch gan và xơ gan không rõ nguyên nhân.

Ba thể bệnh khi bị xơ gan

Trên thực tế, bệnh xơ gan có biểu hiện ra 3 thể bệnh là: xơ gan tiềm tàng; xơ gan còn bù tốt và xơ gan tiến triển, mất bù.

Ở thể xơ gan tiềm tàng, mặc dù bệnh nhân có xơ gan nhưng không có triệu chứng gì, việc phát hiện bệnh chỉ là sự tình cờ như phẫu thuật bụng vì một bệnh khác thấy xơ gan; chẩn đoán hình ảnh một bệnh khác nhưng lại phát hiện được hình ảnh xơ gan...

Thể xơ gan còn bù tốt, bệnh nhân thường có các dấu hiệu sau: rối loạn tiêu hóa như ăn không tiêu, đầy bụng, trướng hơi; đau tức nhẹ vùng hạ sườn phải; chảy máu cam không rõ nguyên nhân; nước tiểu thường có màu vàng sẫm; suy giảm tình dục: nam thì liệt dương, nữ thì vô kinh và vô sinh; gan hơi to và chắc, lách to quá bờ sườn; có mao mạch ở lưng và ngực, hay nổi mẩn đỏ ở lòng bàn tay; lông ở nách, ở bộ phận sinh dục thưa thớt; móng tay khô trắng; nam giới: tinh hoàn teo nhẽo, vú to. Xét nghiệm thấy: albumin giảm, gama globulin tăng; men maclagan tăng trên 10 đơn vị; siêu âm thấy gan to, vang âm của nhu mô gan thô, không thuần nhất; soi ổ bụng và sinh thiết thấy tổn thương xơ gan. Thể bệnh này có thời gian ổn định trong nhiều năm, nhưng thường tiến triển nặng dần từng đợt, nhất là khi bị viêm nhiễm làm cho bệnh xơ gan trở thành mất bù hoặc biến chứng nặng.

Thể xơ gan mất bù, bệnh nhân có các triệu chứng: gầy sút nhiều, chân tay khẳng khiu, huyết áp thấp; bị rối loạn tiêu hóa thường xuyên, chán ăn, ăn không tiêu, đại tiện phân lỏng, phân sống; mệt mỏi thường xuyên, ít ngủ, giảm trí nhớ; chảy máu cam, chảy máu chân răng; da mặt xạm; có nhiều đám xuất huyết ở da bàn chân, bàn tay, vai, ngực; phù hai chân; có cổ trướng, tuần hoàn bàng hệ; lách to hơn bình thường, chắc. Xét nghiệm: albumin giảm, gamma globulin tăng cao; bilirubin máu, men transaminaza tăng trong các đợt tiến triển; hồng cầu, bạch cầu. tiểu cầu thường giảm; chụp và soi thấy giãn tĩnh mạch thực quản; siêu âm thấy trên mặt gan có nhiều nốt đậm âm, có hình ảnh giãn tĩnh mạch cửa, giãn tĩnh mạch lách...; nội soi ổ bụng thấy gan to, hoặc teo nhỏ, nhạt màu; trên mặt gan có những u nhỏ đều, hay to nhỏ không đều; lách to, có dịch ổ bụng.
Cần một chế độ chăm sóc và dinh dưỡng hợp lý

Bệnh nhân xơ gan cần chế độ ăn uống, nghỉ ngơi thích hợp: khi bệnh tiến triển có cổ trướng, cần được nghỉ ngơi tuyệt đối. Ăn uống đủ chất, hợp khẩu vị của bệnh nhân, phải đảm bảo đủ calo (2.500 - 3.000 calo/ngày); ăn nhiều đạm (100g/ngày); nhiều vitamin C, vitamin nhóm B; hạn chế ăn mỡ; bệnh nhân chỉ ăn nhạt khi có phù nề. Nếu có dấu hiệu hôn mê gan phải hạn chế lượng đạm trong khẩu phần ăn. Dùng thuốc cải thiện chuyển hóa tế bào gan và các nội tiết tố glucocorticoit; thuốc hỗ trợ chuyển hóa tế bào gan như vitamin C, B12, cyanidanol... Dùng phối hợp thuốc Nam như: nhân trần, actiso, tam thất... Điều trị cổ trướng: dùng thuốc lợi tiểu chống thải kali.
Lời khuyên của bác sĩ

Bệnh xơ gan nếu để tiến triển đến giai đoạn cuối, gan bị thoái hóa, tổn thương không hồi phục được, vì vậy việc phòng tránh bệnh xơ gan là vấn đề rất quan trọng. Mọi người có thể áp dụng các biện pháp ngăn chặn, loại trừ các nguyên nhân xơ gan như phòng viêm gan virut B và C bằng các biện pháp vệ sinh cá nhân thật tốt; tiêm phòng bệnh viêm gan virut B cho trẻ em và những người lớn chưa bị bệnh; phải làm tốt công tác vô khuẩn và khử khuẩn mỗi khi tiêm truyền, châm cứu; an toàn truyền máu. Sinh hoạt lành mạnh: hạn chế hoặc bỏ hẳn rượu, bia, bỏ hút thuốc lá. Hàng ngày ăn uống đủ chất: đạm, đường, béo, vitamin và khoáng chất. Phòng nhiễm các bệnh giun sán bằng cách thực hiện ăn chín, uống sôi, không ăn cá hay hải sản tái, sống hoặc chưa nấu chín kỹ, không ăn rau sống, không uống nước lã. Khi có bệnh gan mật cần điều trị tích cực.