November 28, 2012

Một số bệnh truyền nhiễm dễ mắc phải cần quan tâm

Một số bệnh truyền nhiễm rất dễ mắc phải cần quan tâm

Tác nhân của các bệnh truyền nhiễm là do vi khuẩn hoặc virus, trong đó tác nhân do virus ngày càng tăng, độc lực càng cao và diễn biến phức tạp hơn trước đây (nếu như bệnh đã có từ trước, nay bộc phát). Một số bệnh truyền nhiễm điển hình đó là: Tay - chân - miệng, sốt xuất huyết, tả, cúm A H5N1, cúm A H1N1.

Vi trùng gây bệnh truyền nhiễm
Vi trùng gây bệnh truyền nhiễm

Bệnh tay - chân - miệng (Hand-Foot-Mouth Disease HFMD):

Là một bệnh do nhiễm virus đường ruột (enterovirus), thường gặp nhất là Coxsackievirus A16 và Enterovirus 71 (EV 71). Bệnh tập trung chủ yếu là trẻ dưới 5 tuổi, nhất là trẻ 1-2 tuổi. Bệnh cũng có thể gặp ở người trưởng thành. Khoảng 75% người lớn có virus tay - chân - miệng nhưng không có biểu hiện bệnh lý gọi là người lành mang trùng (carrier). Đây là đối tượng rất khó quản lý nhưng dễ phát tán mầm bệnh. Năm 2011, Việt Nam đã trở thành quốc gia có tỷ lệ người mắc bệnh T-C-M cao thứ 2 thế giới, sau Trung Quốc. Tại khu vực phía Nam, số mắc bệnh T-C-M chiếm 65,5% và số chết chiếm 89,2% so với cả nước. Thành phố Hồ Chí Minh có số mắc cao nhất nước, Tiền Giang có số mắc đứng hàng thứ 7 so với cả nước. Tính đến ngày 13/11/2011, số ca mắc bệnh T-C-M trên địa bàn tỉnh ta là 2.948, tăng 6,82 lần so với cùng kỳ năm 2010, trong đó tử vong 5 trường hợp. Bệnh T-C-M chưa có vaccine phòng ngừa và chưa có thuốc điều trị đặc hiệu, nhưng lại lây lan nhanh và diễn biến phức tạp, nhanh chóng, dễ gây ra tử vong. Biện pháp phòng ngừa chính là giữ vệ sinh tốt và hạn chế tiếp xúc với nguồn bệnh. Biện pháp phòng ngừa đơn giản, dễ thực hiện nhất nhưng hiệu quả nhất là rửa tay sạch bằng xà phòng thường xuyên trước khi ăn, sau khi đi vệ sinh, thay tả, chăm sóc người bệnh hoặc sau khi tiếp xúc với các chất tiết của người bệnh.

Bệnh Sốt xuất huyết (Dengue Heamorrhagic Fever):

Là một loại bệnh lý truyền nhiễm do virus Dengue (D1, D2, D3, D4) gây ra. Tại Việt Nam, sốt xuất huyết có số mắc đứng hàng thứ năm trong bệnh truyền nhiễm, nhưng có số tử vong đứng đầu trong 26 bệnh được ghi nhận từ năm 2001 đến 2007. Theo ghi nhận, SXH có chu kỳ bùng phát dịch lớn mỗi 10 năm, trong đó 85% các trường hợp SXH xảy ra tại khu vực phía Nam. Trong những năm gần đây, SXH có khuynh hướng gia tăng tại các tỉnh phát triển công nghiệp (TP. Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa Vũng Tàu...). Tại Tiền Giang, tính đến ngày 20/11/2011, tổng số ca mắc SXH là 2.933 (giảm 47,29% so với cùng kỳ năm trước) và đã tử vong 01 trường hợp. SXH hiện cũng chưa có thuốc điều trị đặc hiệu và chưa có vaccine phòng ngừa. Biện pháp phòng ngừa là "không có muỗi, không có lăng quăng thì không có sốt xuất huyết".

Bệnh tả (Cholerae):

Là một bệnh nhiễm trùng đường ruột, do phẩy trùng Vibrio cholerae gây ra. Độc tố của vi trùng này gây tiêu chảy nặng kèm theo mất nước. Các triệu chứng điển hình là nôn mửa nhiều và tiêu chảy liên tục rất nhiều lần với khối lượng lớn, có khi hàng chục lít một ngày với phân toàn nước, có màu trắng lờ đục như nước vo gạo; bệnh nhân không sốt (có khi lạnh cả người) và ít khi đau bụng. Bệnh nhân mất nước và chất điện giải nhanh chóng, dễ bị trụy tim mạch, gây shock mất nước và có thể tử vong nếu không được bù nước và điện giải kịp thời.

Tại khu vực phía Nam, bệnh tả giảm đi rất rõ rệt kể từ năm 1995. Tỉnh Tiền Giang đã 3 ca bệnh tả vào năm 2010 sau 13 năm liên tục không có ca bệnh tả. Bệnh tả đã có thuốc điều trị và có vaccine phòng ngừa. Biện pháp phòng ngừa bệnh tả là giữ gìn tốt vệ sinh cá nhân, vệ sinh môi trường, bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm, sử dụng nước sạch và xử trí ngay những trường hợp mắc hoặc nghi ngờ bệnh tả để tránh lây lan.

Cúm A H5N1 còn gọi là cúm chim hoang dã hay gia cầm (Bird Flu, Avian Influenza):

Là một dạng bệnh đường hô hấp do virus cúm A phân nhóm H5N1 gây ra, với các triệu chứng thường gặp: sốt, nhức đầu, đau cơ, mệt mỏi, sổ mũi, đau họng, ho khan, sau đó nhanh chóng dẫn đến viêm phổi nặng với ho có đàm, đau ngực, khó thở tím tái, nếu không điều trị kịp thời sẽ suy hô hấp, shock nhiễm trùng, suy đa phủ tạng, hôn mê rồi tử vong. Nguồn bệnh là gia cầm, thủy cầm bị bệnh thải virus qua chất tiết và phân.

Cúm A H5N1 phát hiện đầu tiên tại Việt Nam vào năm 2003, từ đó đến nay xảy ra rải rác tại khắp các tỉnh thành trong cả nước. Tại Tiền Giang đã ghi nhận 2 ca mắc và tử vong cả 2 do cúm A H5N1 (tại Cai Lậy vào năm 2005 và tại Cái Bè vào năm 2010), tỷ lệ tử vong 100%. Biện pháp phòng ngừa cúm A H5N1 là giữ vệ sinh cá nhân, vệ sinh ăn uống (ăn chín, uống chín), không sử dụng thịt hoặc các sản phẩm từ gia cầm, thủy cầm bị bệnh (nhất là tiết canh) và tránh tiếp xúc với nguồn bệnh.

Cúm A H1N1:
Cũng có những triệu chứng của cúm thông thường là sốt, nhức đầu, đau cơ, mệt mỏi, sổ mũi, đau họng, ho khan... Bệnh cúm A H1N1 thường diễn biến không nặng và không cần điều trị đặc biệt, trừ những trường hợp xảy ra trên những đối tượng có nguy cơ cao như: phụ nữ mang thai, trẻ em, người già, người mắc các bệnh mãn tính như phổi mãn tính, bệnh tim mạch, tiểu đường, hen phế quản, lao phổi, người nhiễm HIV/AIDS, béo phì, suy dinh dưỡng... là những nhóm dễ bị biến chứng nguy hiểm, có khả năng tử vong. Bệnh lây truyền trực tiếp từ người sang người thông qua giọt bắn từ ho khạc, hắt hơi, nước mũi hoặc từ các chất tiết dính vào bề mặt các vật dụng.

Năm 2009, tại Tiền Giang có 204 ca mắc bệnh cúm A H1N1 nhưng không có tử vong. Năm 2011, tỉnh có 3 ca mắc bệnh cúm A H1N1, trong đó có 1 tử vong do có kèm theo bệnh cảnh cao huyết áp + thiếu máu cơ tim/ hen phế quản.

Để chủ động ngăn ngừa dịch cúm A H1N1, người bệnh nên đeo khẩu trang hoặc che miệng khi ho, không khạc nhổ bừa bãi để hạn chế lây lan cho người thân và cộng đồng. Người chưa mắc bệnh cần tránh tiếp xúc với người bệnh, đeo khẩu trang khi đến nơi đông người, giữ vệ sinh cá nhân thông qua việc thường xuyên rửa tay bằng xà phòng, súc miệng hàng ngày bằng nước sát khuẩn, ăn thức ăn đủ chất dinh dưỡng để nâng cao thể trạng.

Xem thêm:


Các món ăn giảm bớt tác hại của rượu


Các món ăn giảm bớt tác hại của rượu


Tết đến, chúng ta không tránh khỏi việc uống rượu, tuy nhiên nếu uống rượu kết hợp với những món ăn sau đây sẽ giúp chúng ta giảm bớt được tác hại của rượu đối với cơ thể.

Món ăn giả bớt tác hại của rượu
Các món ăn hàm chứa nhiều protit keo
Ví dụ như chân giò, móng giò lợn, thịt lợn nấu đông.
Các thực phẩm có hàm lượng protit keo cao sẽ hình thành một lớp màng bảo vệ trong dạ dày, đường ruột, giúp ích rất lớn trong việc làm chậm tốc độ hấp thu của rượu, còn có thể bảo vệ gan. Đồng thời, những thực phẩm này cũng chứa hàm lượng chất béo nhất định, rượu rất khó hòa tan trong chất béo đó, vì vậy sẽ làm chậm tốc độ hấp thu rượu đối với cơ thể..

Rau quả hàm chứa chất xơ cao
Ví dụ như rong biển, mộc nhĩ, cải thảo …
Thực phẩm hàm chứa chất xơ cao có thể làm chậm hoặc giảm bớt sự hấp thu của rượu, có tác dụng bảo vệ chức năng gan. Rong biển trộn, hành tây trộn với mộc nhĩ, cả hai món ăn này vừa rất ngon miệng vừa bảo vệ gan.

Các loại ngũ cốc thô, khoai tây
Những thực phẩm này rất giàu carbohydrates, carbohydrates và rượu kết hợp, sẽ làm chậm sự hấp thu của dạ dày với rượu. Ngoài ra, hàm lượng các loại vitamin B trong thực phẩm này cũng rất phong phú, có thể bù đắp cho việc mất vitamin B1 khi uống quá nhiều rượu vào. Vì vậy, khoai tây, khoai lang, ngũ cốc và rau quả là lựa chọn rất tốt khi uống rượu.

Các món ăn giàu protein
Ví dụ như thịt, trứng và các chế phẩm từ đậu...
Những thực phẩm này chứa đại lượng choline và methionine, có tác dụng bảo vệ gan. Vì vậy, ăn những thực phẩm này tương đương như các loại thuốc bảo vệ gan. Uống càng nhiều rượu, nồng độ cồn càng cao, càng cần ăn nhiều thực phẩm giàu protein, ví dụ như đậu phụ, lạc luộc vv.

Xem thêm:

9 mẹo nhỏ giúp giảm tác hại của rượu


9 mẹo nhỏ giúp giảm tac hai cua ruou


Dù biết rượu có ảnh hưởng không tốt cho sức khỏe nhưng bạn không có lý do để từ chối rượu trong các bữa tiệc tiếp khách...Những mẹo nhỏ dưới đây sẽ giúp hạn chế tới mức tối đa ảnh hưởng của rượu tới sức khỏe cơ thể.



tác hại của rượu
Tác hại của rượu
1. Không tắm ngay sau khi uống rượu

Việc tắm ngay sau khi uống rượu sẽ làm tiêu hao một lượng lớn đường glucose có trong cơ thể, từ đó làm giảm lượng đường trong máu, dẫn tới hạ đường huyết đột ngột, giảm thân nhiệt.

Thành phần chất cồn trong rượu sẽ làm rối loạn hoạt động của gan.

Tắm ngay sau khi uống rượu nhiều còn có thể gây đột quỵ hoặc trụy tim mạch, dẫn tới tử vong.

2. Ăn nhiều rau xanh và hoa quả

Rau xanh, hoa quả, đậu tương và các chế phẩm từ đậu tương giàu vitamin và chất chống oxi hóa, giúp bảo vệ gan và hạn chế tác hại của cồn trong rượu tới hoạt động của gan.

Vì vậy, một chút rau xanh, hoa quả hoặc sữa đậu nành sau bữa tiệc sẽ giúp bảo vệ sức khỏe của lá gan và cơ thể.

3. Không uống rượu thuốc trong bữa tối

Một số loại thực vật và thảo dược trong thành phần của rượu thuốc sẽ kết hợp với thức ăn có nguồn gốc động vật và sản sinh ra các phản ứng hóa học có hại cho dạ dày và hệ tiêu hóa, đôi khi có thể gây cảm giác đầy bụng, khó tiêu và ói mửa.

Thức ăn càng để lâu thì tac hai cua ruou với cơ thể càng lớn. Vì vậy, không nên dùng rượu thuốc vào buổi tối.

4. Không dùng trà ngay sau khi uống rượu

Nước ép trái cây như nước cam ép, táo ép chứa nhiều thành phần axit amin và hàm lượng đường fructose, có tác dụng trung hòa lượng cồn của rượu, từ đó có tác dụng giải rượu nhanh.

Ngược lại, thành phần tanin trong trà lại càng kích thích nhanh hơn quá trình thẩm thấu của cồn vào dạ dày và gây hại cho dạ dày nhiều hơn. 

5. Tuyệt đối không uống rượu khi đói

Khi bụng đói, lượng axit trong dạ dày tăng lên, khi kết hợp với chất cồn trong rượu sẽ làm bạn dễ say hơn, kèm theo đó là cảm giác nôn nao, khó chịu.

Vì vậy, vừa ăn, vừa uống hay ăn một chút lót dạ trước khi uống rượu là cách tốt nhất để đẩy lùi cơn say và giảm bớt tac hai cua ruou với sức khỏe cơ thể. Khi đã có thức ăn trong dạ dày. Các axit dịch vị còn " mải mê" tiêu hóa thức ăn mà tạm thời "quên đi" việc xử lý chất cồn trong rượu, từ đó đẩy lùi cơn say.

6. Không dùng nhiều loại rượu cùng lúc

Rượu thuốc, rượu vang, rượu trắng... mỗi loại có thành phần và liều lượng khác nhau, khi uống lẫn lộn, sẽ dễ làm bạn say hơn.

7. Không uống nhiều 1 lúc

Uống rượu từ từ cũng là cách giảm cơn say của bạn vì 1 lượng cồn lớn bất ngờ "đổ bộ" vào cơ thể trong thời gian ngắn có thể gây tác động nhanh, mạnh tới não bộ, có thể dẫn tới choáng và nhanh say hơn.

8. "Kết thân" với nước khi uống rượu

Khi uống rượu, bạn đừng quên chuẩn bị cho mình một vài cốc nước đun sôi để nguội. Bạn nên uống nước ngay sau khi uống rượu. Dù lượng nước nhiều hay ít thì việc này cũng làm bạn phải tích cực "ghé thăm" nhà vệ sinh nhiều hơn. Cách này cũng giúp đẩy nhanh quá trình đào thải chất cồn ra khỏi cơ thể qua đường tiểu tiện, làm bạn không bị say khi uống rượu.

9. "Làm ấm" rượu trước khi uống

Đối với tất cả các loại rượu, trước khi uống, bạn hãy "làm ấm" chúng bằng cách ngâm vào nước nóng. Dưới tác động của nhiệt độ, một số chất có hại trong rượu sẽ bay hơi, từ đó giảm được những tác động xấu của rượu tới sức khỏe cơ thể.

Xem thêm:

November 27, 2012

Vitamin và bệnh truyền nhiễm



Vitamin giúp cải thiện kết quả điều trị các benh truyen nhiem

Bổ sung vào chế độ ăn uống các vitamin A, vitamin nhóm B, C, E sẽ giúp cải thiện kết quả điều trị các benh truyen nhiem, trong đó có bệnh lao. Đó là kết quả nghiên cứu mới được các nhà khoa học Mỹ công bố gần đây.

Theo bác sĩ Eduardo Villamor, ĐH Y tế cộng đồng Harvard (Boston, Mỹ), chất dinh dưỡng đóng vai trò quan trọng trong việc dự báo những kết quả điều trị cho người mắc benh truyen nhiem.

Qua theo dõi 887 bệnh nhân ở khu vực Dar es Salaam (Tanzania), Villamor và các cộng sự cho rằng, việc bổ sung đầy đủ dinh dưỡng cũng như các loại vitamin có thể làm giảm các tai biến và tử vong trong quá trình điều trị. Hơn thế, các vi chất này còn giúp giảm phần nào nguy cơ thất bại trong điều trị; đồng thời giảm tới 45% nguy cơ tái phát sau khi được điều trị khỏi.


Mặc dù việc bổ sung vi chất dinh dưỡng không làm thay đổi được tỉ lệ tử vong hay tác động tới quá trình điều trị bệnh nhân HIV nhưng rõ ràng, hệ miễn dịch của những bệnh nhân được bổ sung vi chất được nâng lên rất nhiều, giảm được phần nào sự xâm nhập của các vi rút gây benh truyen nhiem.

Các nhà khoa học cũng nhấn mạnh rằng: “Những kết quả thu được từ nghiên cứu đơn lẻ này chưa đủ để đưa ra những khuyến nghị đối với bệnh nhân. Tuy nhiên, với liệu pháp can thiệp tương đối rẻ tiền này, hứa hẹn sẽ mang tới một cách điều trị bổ trợ tiềm năng mới cho người mắc benh truyen nhiem”.


Xem thêm:
tac hai cua ruou | day bung kho tieu | dieu tri xo gan | te bao goc la gi | ghep te bao goc | ung thu gan la gi | benh xo gan

Đột biến gen khiến người dễ mắc bệnh truyền nhiễm

Đột biến gen khiến người dễ mắc bệnh truyền nhiễm

Báo cáo của Đại học Oxford, Anh hôm 20/5 cho biết, trường này đã hợp tác với các cơ quan nghiên cứu của Singapore phát hiện một loại gen có tên gọi CISH gây ảnh hưởng quan trọng đối với hệ miễn dịch cơ thể người. 

Sự đột biến của gen này sẽ làm cho con người dễ mắc các bệnh truyền nhiễm như bệnh lao và sốt rét. 

Một người có dễ mắc bệnh truyền nhiễm hay không chủ yếu liên quan đến các yếu tố môi trường của chính bản thân người đó như thể chất kém, thói quen vệ sinh không lành mạnh. 

Tuy nhiên, yếu tố môi trường không phải là nguyên nhân duy nhất khiến mọi người dễ mắc bệnh truyền nhiễm. Nghiên cứu cho thấy, yếu tố di truyền cũng đóng một vai trò hết sức quan trọng. 

Báo cáo cho biết, các nhà khoa học đã phải mất 5 năm phân tích hơn 8.000 gen của các đối tượng đến từ Kenya, Việt Nam và Hongkong mới xác định được mối quan hệ mật thiết giữa gen CISH với rất nhiều bệnh truyền nhiễm. 

Khi gen CISH đột biến sẽ khiến cho những người mang gen này dễ bị mắc các bệnh truyền nhiễm như bệnh lao, sốt rét. 

Cuối cùng các nhà khoa học đã xác nhận được năm nhóm gen CISH khác nhau bị đột biến, trong đó có một nhóm gen đột biến (-292) khiến cho người mang gen CISH đột biến nguy cơ mắc bệnh truyền nhiễm gia tăng 18%. 

Các nhà khoa học phát hiện, trong tế bào máu của người mang gen đột biến (-292), mức độ protein CISH thấp hơn nhiều so với những người không mang loại gen đột biến này. 

Điều này cho thấy, gen CISH có ảnh hưởng di truyền rất lớn đối với phản ứng miễn dịch của cơ thể người. Protein CISH có tác dụng ức chế sự truyền tín hiệu giữa các tế bào hệ miễn dịch. 

Theo các nhà khoa học, trước mắt họ chưa hiểu rõ tại sao sự hạ thấp mức độ gen CISH lại dễ dàng gây mắc các bệnh truyền nhiễm

Tuy nhiên, một điều rõ ràng là gen CISH có vai trò then chốt trong hệ miễn dịch, điều này cần phải tiếp tục nghiên cứu. 

Các nhà khoa học hy vọng phát hiện mới này có thể khuyến khích nhiều nghiên cứu lâm sàng để tìm ra phương pháp mới điều trị bệnh truyền nhiễm có hiệu quả hơn và điều chế vắcxin dự điều phòng căn bệnh này.


Xem thêm:
ghép tế bào gốc | bệnh truyền nhiễm | tác hại của rượu | đầy bụng khó tiêu | ung thư gan là gì | benh xo gan | điều trị xơ gan | chữa bệnh xơ gan