March 20, 2013

Bài thuốc dân gian giúp giải độc gan hiệu quả

Lá gan là cơ quan lớn nhất trong cơ thể. Tất cả các chất vào cơ thể đều qua gan vào máu và đến các nơi. Tuy nhiên, thống kê cho thấy, hiện nay trên thế giới có khoảng hơn 2 tỷ người mang những nguy cơ mắc bệnh về gan vì nhiều nguyên nhân, đặc biệt là do uống quá nhiều rượu 

tác hại của rượu:  Theo lý giải của các bác sĩ, sở dĩ như vậy là vì sau khi hấp thu, phần lớn rượu được chuyển hóa ở gan. Do đó, nếu uống rượu với số lượng quá nhiều, gan sẽ không kịp sản xuất đủ số lượng men để chuyển hóa giải độc rượu. Hậu quả là rượu sẽ bị ứ lại trong cơ thể và gây độc cho nhiều cơ quan nội tạng, trong đó gan là cơ quan bị ảnh hưởng nặng nề nhất. Điển hình cho các căn bệnh về gan là bệnh xơ gan mãn tính, gan nhiễm mỡ, viêm gan, ung thư gan.

Điều đáng nói là diễn tiến của bệnh gan thường kéo dài. Giai đoạn đầu không có triệu chứng rõ ràng nên nhiều người không để ý, đến khi có dấu hiệu như vàng da, vàng mắt, bụng to, đầy bụng khó tiêu, chân phù, chảy máu… thì bệnh đã ở giai đoạn trễ, làm hạn chế hiệu quả điều trị. Do vậy, theo lời khuyên của các bác sĩ, những người thường hay uống rượu bia cần phải theo dõi sức khỏe định kỳ. Tốt nhất, để phòng ngừa các tổn thương ở gan do rượu bạn nên hạn chế uống rượu bia, đồng thời kết hợp ứng dụng các phương thức hiệu quả từ tự nhiên.

Theo PGS Ngọc Giao, từ xưa đến nay, nhiều loại cây cỏ có tác dụng giải độc cho gan được sử dụng nhưng chủ yếu chế biến bằng cách nấu cao hoặc sắc nước để uống. Ngày nay, các nhà khoa học đã tiến hành nghiên cứu, tổng hợp các tinh chất từ hoa trái, cỏ cây với mục đích ứng dụng hiệu quả vào thực tế, như hỗ trợ điều trị gan nhiễm mỡ, viêm gan, đồng thời tăng cường kháng thể.

Theo kinh nghiệm dân gian, có rất nhiều bài thuốc quý từ cỏ cây, hoa trái giúp giải độc và điều trị các bệnh về gan, đặc biệt là bệnh gan do rượu. Có thể kể đến trong số này có tổng hợp Papain từ đu đủ, Alicin từ bột tỏi, Betacarotene từ gấc, quả trứng gà, Enzyme Peroxidase từ mướp đắng, củ cải cùng Pluriamin được thủy phân từ nhộng tằm tạo nên hợp chất hữu ích Naturens, cung cấp acid amin cần thiết cho cơ thế, ngăn ngừa tiền ung thư gan. Thực tế, mỗi loại nguyên liệu từ tự nhiên đó đều có tác dụng hữu hiệu trong chăm sóc, bảo vệ sức khỏe. Cụ thể:

- Ăn đu đủ thường xuyên có tác dụng bổ máu, chữa chứng mất ngủ, viêm dạ dày mãn tính, giúp hồi phục gan, tăng sức đề kháng cho cơ thể.

- Tỏi giúp phục hồi allicin, một hợp chất tự nhiên trong cơ thể, có tác dụng chống ung thư cùng các bệnh về tim mạch, giảm cholesterol và giảm huyết áp.

- Gấc dùng để nấu xôi vừa ngon, đẹp lại nhuận tràng, tốt cho tiêu hóa. Đặc biệt, gấc chứa nhiều betacaronten, là tiền sinh tố vitamin A, có lợi cho mắt. Trong lớp màng đỏ bao quanh hạt gấc có chứa vitamin E, hữu hiệu để chống sạm da, khô da, rụng tóc.

- Quả trứng gà hay còn gọi là lêkima cũng là một loại trái cây có chứa nhiều carotene, vitamin B3 và các nhóm vitamin B khác, có khả năng chống lão hóa. Đặc biệt tinh dầu chiết xuất từ hạt lêkima còn có khả năng làm lành vết thương.

- Nước cốt mướp đắng tươi, có tác dụng hạ đường huyết, lý tưởng cho người bệnh đái tháo đường. Nước nấu mướp đắng có công hiệu thanh nhiệt, thích hợp cho người bị chứng nóng gan.

- Cà gai leo dùng chữa ngộ độc rượu rất tốt, có tác dụng bảo vệ tế bào gan. Nếu bị say, uống nước sắc của rễ hoặc thân lá sẽ nhanh tỉnh rượu

- Cây chó đẻ răng cưa, theo kinh nghiệm dân gian dùng làm thuốc, giã nát với muối chữa mụn nhọt, đặc biệt tốt cho gan bằng cách lấy 20-40g cây tươi, sao khô sắc đặc dùng để uống hàng ngày.

- Cây giảo cổ lam tốt cho tế bào gan, tăng cường chức năng giải độc của gan, làm hạ mỡ máu, ngăn ngừa xơ vữa mạch máu, và bình ổn huyết áp, phòng ngừa các bệnh về tim mạch.


March 19, 2013

Các bệnh về gan và cách phòng ngừa

Các bệnh về gan:
Có nhiều loại bệnh gan, nhưng trong đó các bệnh gan quan trọng nhất là:
          -  Viêm gan siêu vi, viêm gan cấp tính
          -  Bệnh xơ gan
          -  Các rối loạn về gan ở trẻ em
         -  Sỏi mật
          -  Rối loạn chức năng gan liên quan đến rượu

Các triệu chứng và các dấu hiệu của bệnh gan
          -  Da và mắt thay đổi màu sắc bất thường, trở nên vàng. Dấu hiệu này gọi là hoàng đản và thường là dấu hiệu đầu tiên, đôi khi là dấu hiệu duy nhất của bệnh gan.
          -  Nước tiểu sậm màu.
          -  Phân xám, màu hoặc bạc màu
          -  Bị giãn tĩnh mạch
          -  Nôn ói, ói mửa và/hoặc chán ăn
          -  Mệt mỏi, trì trệ và suy nhược
          -  Ói ra máu, đi cầu phân đen hoặc có máu. Xuất huyết tiêu hóa có thể xuất hiện khi các bệnh gan gây ra tắc nghẽn dòng máu qua gan. Sự chảy máu dẫn đến đi cầu ra máu hay phân đen.
          -  Bụng căng chướng. Bệnh gan có thể gây ra bụng báng do ứ đọng dịch trong khoang ổ bụng.
          -  Ngứa kéo dài và lan rộng.
          -  Khả năng lạo bỏ độc tố trong máu kém
          -  Thay đổi cân nặng bất thường: trọng lượng cơ thể tăng hoặc giảm quá 5% trong vòng 2 tháng.
          -  Chất béo trong cơ thể khó giảm.
          -  Đau bụng, đầy bụng khó tiêu
          -  Các rối loạn giấc ngủ, tâm thần và hôn mê xuất hiện ở bệnh gan nghiêm trọng. Các hậu quả này là do sự ứ đọng các chất độc trong cơ thể gây tổn thương chức năng của não.
          -  Mất sự ham muốn tình dục hay khả năng tình dục.
          -  Đang trong giai đoạn mãn kinh.
          -  Đau đầu, giảm glucoza trong máu, tăng mức độ triglycerid trong máu

Nếu có bất cứ dấu hiệu hay triệu chứng nào ở trên, hãy đến tham vấn ý kiến bác sĩ của ban ngay lập tức.

Cách phòng chống:
Không uống quá 2 loại thức uống có rượu trong một ngày.
Chú ý sự tương tác thuốc khi dùng chung vài loại thuốc với nhau; đặc biệt, không dùng rượu, bia, nước ngọt để uống thuốc, không uống các loại thuốc không có kê toa và các thuốc gia truyền với nhau.
Tránh uống thuốc khi không cần thiết
Tránh tiếp xúc với các loại hóa chất công nghiệp.
Duy trì một chế độ ăn uống đầy đủ và cân đối
Đi khám bệnh nếu bạn phát hiện thấy bất cứ dấu hiệu hay triệu chứng bệnh gan nào

March 18, 2013

Di căn bị tái phát sau khi điều trị ung thư

chua benh ung thu là một trong những đề tài khó của ngành Y học thế giới, những phương pháp điều trị truyền thống như phẫu thuật, hóa trị, xạ trị đã có những tác dụng mang tính quyết định trong thế kỷ 20.


Bệnh tình của bà NaHa chuyển biến tốt sau khi điều trị.


Không thể phủ nhận rằng những kĩ thuật này đã giúp không ít bệnh nhân ung thư thuyên giảm bệnh tình. Tuy nhiên, trong lâm sàng người ta phát hiện phẫu thuật, xạ trị, hóa trị vẫn tồn tại những khuyết điểm như: phẫu thuật xong dễ tái phát và di căn; xạ - hóa trị không có hiệu quả với những tế bào ung thư ẩn và tế bào gốc của khối u còn sót lại; phẫu thuật và xạ - hóa trị còn ảnh hưởng tới hệ thống miễn dịch của cơ thể…

Hơn nữa, những phương pháp điều trị đơn nhất này không đủ để điều trị triệt để, tác dụng phụ lớn, tỉ lệ chữa khỏi cực thấp, khiến cho nhiều bệnh nhân ung thư mất đi sự tự tin để điều trị.

Với sự phát triển không ngừng của kĩ thuật Y học trong thế kỉ 21, ngày càng nhiều những ca bệnh khó được điều trị, thậm chí là chữa khỏi. Vậy thì ung thư có chữa khỏi được không, ngoài phương pháp phẫu thuật, xạ trị và hóa trị ra, liệu còn phương pháp nào tốt hơn không?

Theo giáo sư Bành Hiểu Xích giám đốc Bệnh viện ung bướu Hiện Đại Quảng Châu, điều trị miễn dịch sinh học là kĩ thuật điều trị ung thư thứ tư tiếp sau phẫu thuật, xạ trị , hóa trị.

Phương pháp này ngày càng được mọi người hiểu và công nhận, không chỉ đối với ung thư giai đoạn đầu, điều trị miễn dịch sinh học cũng có hiệu quả khá tốt với ung thư giai đoạn giữa và muộn.

Tái phát và di căn sau khi phẫu thuật là một trong những vấn đề khó giải quyết, lúc này , bệnh tình của bệnh nhân đa số là khá nghiêm trọng, vì vậy phẫu thuật, xạ trị hay hóa trị đều đã không thể phát huy hết tác dụng.

Trong khi đó, điều trị miễn dịch sinh học sử dụng công nghệ sinh học và các tác nhận sinh học, lấy tế bào miễn dịch từ chính cơ thể bệnh nhân, tiến hành cấy ghép và nuôi dưỡng, sau đó truyền trở lại cơ thể bệnh nhân, giúp tăng cường chức năng miễn dịch, kháng ung thư, phát huy hiệu quả điều trị.

Bà NaHa 66 tuổi, tới từ Dhaka, Bangladesh, 5 năm trước bác sĩ tại địa phương chẩn đoán bà bị ung thư túi mật, đã phẫu thuật cắt bỏ. 1 năm trước, do cảm thấy đau bụng trên bên phải, đi tới bệnh viện địa phương kiểm tra, thì phát hiện bà bị ung thư biểu mô tuyến biệt hóa thấp di căn. Sau đó gia đình đưa bà sang Singapore kiểm tra PET-CT, kết quả cho thấy bà bị ung thư túi mật di căn gan.

Bà đã làm nhiều lần hóa trị ở bệnh viện Bangladesh, nhưng khối u không nhỏ đi mà tác dụng phụ của hóa chất quá lớn khiến bà Naha không thể tiếp tục chịu đựng, do đó, vào tháng 6 năm 2012, bà đã sang Bệnh Viện Ung Bướu Hiện Đại Quảng Châu điều trị.

Tại đây, bác sĩ tiến hành kiểm tra và kết luận bà bị ung thư túi mật di căn gan, hạch thượng đòn trái. Theo bệnh tình của bà, các chuyên gia của Bệnh Viện Ung Bướu Hiện Đại Quảng Châu dưới sự chỉ đạo của giáo sư Bành Hiểu Xích, đã đưa ra phác đồ điều trị tổng hợp gồm điều trị miễn dịch sinh học + cấy hạt phóng xạ + can thiệp mạch, để giúp cải thiện bệnh tình của bà NaHa.

Qua 2 lần điều trị, miễn dịch sinh học với tác dụng giúp hồi phục chức năng miễn dịch, tình trạng bệnh của bà NaHa đã cải thiện rõ rệt, hiện nay sức khỏe và tinh thần ổn định, có chuyển biến tốt.

Theo tìm hiểu, phương pháp điều trị miễn dịch sinh học phù hợp với nhiều khối u thực thể, nếu so sánh với xạ trị , hóa trị, thì điều trị miễn dịch sinh học có ưu điểm : ít tác dụng phụ, có tác dụng trong phạm vi rộng, đặc biệt là thích hợp với những u ác tính đã di căn hoặc đa ổ.

Mục đích điều trị miễn dịch sinh học rất rõ ràng, không gây ảnh hưởng tới các tế bào lành lặn, giúp bệnh nhân ung thư giai đoạn muộn có thể kéo dài thời gian phát triển bệnh, kéo dài tuổi thọ.

Bệnh "vảy nến" có phải là bệnh truyền nhiễm hay không?

Bệnh "vảy nến" có phải là bệnh truyền nhiễm hay không?
Ai dễ mắc, có di truyền?
Bệnh vảy nến biểu hiện trên da bằng các mảng đỏ có giới hạn rõ và đóng vảy. Khi đè lên thì màu đỏ này biến mất. Các mảng đỏ từ vài cm đến hàng chục cm, có phủ vảy màu trắng đục mà khi cạo ra thì nó rớt vụn giống như sáp đèn cầy. Các thương tổn này được phân bổ đối xứng ở rìa chân tóc, da đầu, cùi chỏ, đầu gối, vùng xương cụt. Bệnh không đau, có thể có ngứa với mức độ ít nhiều tùy theo từng người
Trong trường hợp nặng, bệnh có thể gây hư móng, đau khớp, biến dạng  khớp, nổi mủ từng vùng hoặc toàn thân và làm cả người bị đỏ da không hồi phục.
Bệnh gặp ở mọi lứa tuổi (từ trẻ sơ sinh đến các cụ già với tỷ lệ nam và nữ ngang nhau). Bệnh này có tính di truyền, nếu trong gia đình chỉ có hoặc cha hoặc mẹ  bị thì khoảng 8% con sẽ mắc bệnh, còn nếu cả cha và mẹ cùng bị vảy nến thì tần suất các con mắc bệnh là 41%.

Bệnh không lây, nhưng chữa không hết
Yếu tố miễn dịch được cho là nguyên nhân chính gây ra bệnh vảy nến. Thêm vào đó, yếu tố di truyền, các bất thường về sinh hóa, chấn thương tâm lý, thuốc… cũng là các yếu tố gây khởi phát, tái phát hoặc làm bệnh nặng thêm. Bệnh này không lây lan. Nhưng các yếu tố làm bệnh nặng hơn là nhiễm liên cầu trùng, nhiễm siêu vi trùng, stress, chấn thương tâm lý…
Do nguyên nhân sinh bệnh phức tạp, vảy nến là một trong những bệnh về  da khó chữa hết hẳn. Việc tái phát bệnh thường gây chán nản trong tâm lý người bệnh. Việc trị liệu chỉ giúp cải thiện chất lượng cuộc sống, giúp thuyên giảm các biểu hiện ngoài da, giảm nguy cơ dẫn đến các biến chứng nặng nề, khó chữa như tổn thương khớp, vảy nến mủ hoặc bệnh cảnh đỏ da toàn thân.
Việc phòng bệnh nhằm giúp ngăn chặn sự trầm trọng của bệnh hơn là ngăn bệnh không xảy đến với mình. Biết cách chế ngự stress, giữ cho sức khỏe tốt, trị vảy nến ngay từ khi thương tổn da còn ít theo các hướng dẫn của thầy thuốc chuyên khoa là những việc làm mang lại hiệu quả tốt.
Bệnh nhân phải hiểu được tinh thần sống chung với bệnh, rèn luyện thể lực, vui chơi giải trí lành mạnh, ăn uống đầy đủ dưỡng chất vì người có bệnh thường bị mất đạm qua lượng vảy tróc ra hằng ngày. Chỉ dùng thuốc theo chỉ dẫn của thầy thuốc, không được tự trị lấy!

March 15, 2013

Thành công điều trị ung thư gan biểu mô tế bào


Bệnh viên TƯQĐ 108 đã thành công trong điều trị ung thư gan biểu mô tế bào

"Chi phí cho một ca điều trị hoá tắc mạch bằng vi cầu khoảng 45 – 50 triệu đồng, tuy nhiên cũng kỹ thuật này ở một số nước trong khu vực như Singapore, Thái Lan…thì người bệnh sẽ phải chi phí hơn thế nhiều lần"

Hơn 30 bệnh nhân bị ung thư biểu mô tế bào gan không còn chỉ định phẫu thuật đã được các bác sĩ Bộ môn – Khoa Nội tiêu hóa (A3) Bệnh viện TWQĐ 108 can thiệp thành công kỹ thuật hóa tắc mạch với hạt vi cầu điều trị ung thư biểu mô tế bào gan (UTBMTBG). Đây là một phương pháp điều trị UTBMTBG mới được thực hiện và công bố gần đây tại các nước Âu Mỹ và lần đầu tiên đưa vào ứng dụng ở nước ta.

Ghi nhận từ ca bệnh đầu tiên

Bác Võ Văn Đ., 70 tuổi (Hà Nội) không giấu nổi vui mừng khi biết mình đã được các bác sĩ Bộ môn - Khoa nội Tiêu hóa (A3), Bệnh viện TWQĐ 108 can thiệp thành công kỹ thuật mới điều trị UTBMTBG cho mình, đây là khối u có kích thước gần 8cm sau điều trị bằng kỹ thuật hóa tắc mạch vi cầu đã nhỏ đi chỉ còn 3cm. Theo lời kể của bệnh nhân, ông có tiền sử viêm gan B mạn, được phát hiện và chẩn đoán UTBMTBG từ năm 2004. Ông đã được điều trị bằng phương pháp tiêm ethanol qua da và bệnh ổn định 7 năm nay.

Tuy vậy, trong lần kiểm tra sức khỏe định kỳ năm 2011, bác sĩ phát hiện ông có khối u gan tái phát với kích thước 8cm ở hạ phân thùy IV, tăng sinh mạch mạnh. Đối với căn bệnh UTBMTBG, để điều trị cho người bệnh đòi hỏi phải được phát hiện sớm và phương pháp phẫu thuật cắt bỏ khối u vẫn là hiệu quả nhất. Khi bệnh nhân đã có triệu chứng lâm sàng như đau vùng gan hoặc gày sút cân nhanh thì đây thường là giai đoạn bệnh tiến triển và phương pháp điều trị tạm thời cơ bản là hóa tắc mạch qua đường động mạch hay còn gọi là phương pháp hóa tắc mạch truyền thống.

Tuy nhiên, từ thực tiễn 10 năm nghiên cứu điều trị bệnh UBMTBG bằng phương pháp này, PGS.TS. Mai Hồng Bàng - Phó Giám đốc Bệnh viện, chủ nhiệm Bộ môn Nội tiêu hóa - chủ trì việc triển khai kỹ thuật hóa tắc mạch tại BV cho biết: “Phương pháp hóa tắc mạch truyền thống có những hạn chế nhất định, đó là tỷ lệ hoại tử hoàn toàn khối u thấp, tác dụng phụ và biến chứng sau điều trị khá nặng nề và để giữ vững kết quả thì phải điều trị nhắc lại nhiều lần. Vì thế, chúng tôi quyết tâm ứng dụng những kỹ thuật hóa tắc mạch mới được thực hiện và công bố gần đây tại các nước Âu Mỹ, đó là kỹ thuật hóa tắc mạch với hạt vi cầu để điều trị bệnh UTBMTG – một bệnh đang rất phổ biến tại Việt Nam”.



Ngày 3/6/2011, bệnh nhân Đ. đã được chỉ định điều trị UTBMTBG bằng phương pháp hóa tắc mạch với hạt vi cầu DC Beads (DCB). Sử dụng hạt DCB với 2 loại kích cỡ: 1ml loại hạt đường kính 100 - 300 micromet và 1ml loại hạt đường kính 500 - 700 micromet. Mỗi loại kích cỡ hạt được tải với 37,5mg doxorubicin (hóa chất chống ung thư). Thời gian tải 60 phút cho loại kích cỡ nhỏ và 90 phút cho loại kích cỡ lớn… Sau can thiệp, bệnh nhân chỉ nằm viện 5 ngày và xuất viện trong tình trạng sức khỏe tốt, ăn ngủ bình thường, không sốt, hết đau vùng gan, men gan gần như bình thường và hiện nay vẫn có thể chơi thể thao hàng ngày. Đây là bệnh nhân đầu tiên được can thiệp bằng phương pháp này và đáp ứng điều trị tốt.

Đến nay, Bộ môn – Khoa nội tiêu hóa, Bệnh viện TWQĐ 108 đã thực hiện thành công kỹ thuật hóa tắc mạch với hạt vi cầu cho hơn 30 bệnh nhân UTBMTBG và diễn biến tình trạng bệnh của đa số các bệnh nhân đều tốt. Những bệnh nhân đáp ứng tốt với phương pháp điều trị này đều có kích thước khối u đã được thu nhỏ so với trước khi điều trị.

Kỹ thuật hóa tắc mạch vi cầu không chỉ được áp dụng cho bệnh nhân bị UTBMTBG không còn chỉ định phẫu thuật và từ chối phẫu thuật mà còn được chỉ định điều trị cho bệnh nhân ung thư gan thứ phát, ung thư đường mật trong gan và các khối u tăng sinh mạch ở gan khác..
Khắc phục nhược điểm của kỹ thuật hóa tắc mạchtruyền thống


Về phương pháp điều trị mới này, TS. Nguyễn Tiến Thịnh – người trực tiếp thực hiện kỹ thuật và theo dõi điều trị cho biết: “Hóa tắc mạch với hạt vi cầu là một kỹ thuật hóa tắc mạch mới, khắc phục được những nhược điểm chính của kỹ thuật hóa tắc mạch truyền thống nhờ sử dụng tác nhân tắc mạch cũng đồng thời là chất mang và phóng thích thuốc một cách bền vững - đó là các hạt vi cầu DCB”.

Hiện nay, điều trị ung thư gan tại một số nước châu Âu và châu Á đã công nhận kỹ thuật hóa tắc mạch vi cầu là phương pháp ưu việt, hiệu quả cao và có khoảng trên 30% số bệnh nhân UTBMTBG được điều trị theo phương pháp này.

Hạt vi cầu DCB là hạt hình cầu, có tính mềm, đàn hồi được bảo quản dưới dạng dung dịch phosphat, cho phép duy trì nồng độ thuốc ổn định trong khối u, đồng thời giảm nồng độ thuốc khuếch tán ra tuần hoàn ngoại vi. Hạt DCB là một dạng hạt vi cầu được thiết kế đặc hiệu cho kỹ thuật hóa tắc mạch, có thể được chuyển tải cùng với hóa chất chống ung thư như doxorubicin. Sự gắn kết và phóng thích hóa chất được thực hiện theo cơ chế trao đổi ion: hạt DCB mang điện tích âm còn hóa chất chống ung thư mang điện tích dương nên khi trộn lẫn với nhau chúng sẽ được gắn kết chặt chẽ.

Khi đưa vào trong khối u (môi trường plasma giàu điện tích dương) thì hóa chất được phóng thích từ từ theo cơ chế cạnh tranh trao đổi ion. Chính vì thế, hóa chất trong khối u được duy trì ở nồng độ cao và kéo dài tới 14 ngày sau điều trị can thiệp. Như vậy, khi nồng độ hóa chất trong khối u càng cao và kéo dài thì khả năng diệt tế bào ung thư càng chắc chắn và mạnh mẽ. Bản thân hạt DCB với những kích cỡ khác nhau từ 100 – 900 micromet sẽ gây ra hiện tượng tắc động mạch nuôi khối u.

Các hạt DCB kích thước nhỏ gây tắc vi tuần hoàn khối u và những hạt DCB lớn hơn gây tắc tiểu động mạch và những nhánh động mạch nhỏ nuôi u gây hiện tượng thiếu máu u nặng nề, hậu quả khối u bị bỏ đói và chết. Tính ưu việt của hạt vi cầu có tác dụng làm giảm số lần điều trị nhắc lại, giảm số lần nhập viện, giảm ngày nằm điều trị, hạn chế tác dụng phụ do hóa chất chống ung thư gây ra. Người bệnh sau can thiệp bằng phương pháp này có thời gian nằm viện trung bình 1 tuần, còn thực hiện bằng phương pháp hóa tắc mạch truyền thống do tác dụng phụ của thuốc nên thời gian nằm viện sẽ phải kéo dài hơn, nguy cơ tổn thương đến các nhu mô gan lành cũng cao hơn.

Tuy nhiên, hiệu quả của phương pháp này còn phụ thuộc vào sự chỉ định phù hợp đối với từng ca bệnh cụ thể; không phải trường hợp nào cũng có thể áp dụng tốt phương pháp điều trị này. Cũng như hóa tắc mạch truyền thống, phương pháp này được chỉ định cho các trường hợp UTBMTBG không còn chỉ định phẫu thuật, khối u gan tăng sinh mạch với chức năng gan còn tương đối khá và không có các chống chỉ định đặc biệt.

Xem thêm: chua benh ung thu | thuoc tri benh gan | day bung kho tieu | tac hai cua ruou