December 3, 2012

Làm gì khị bị đầy bụng khó tiêu



Nên làm gì khi bị chứng đầy bụng khó tiêu


Hầu hết mọi người đều đã trải qua chứng đầy bụng khó tiêu. Chứng đầy bụng, khó tiêu do nhiều nguyên nhân gây ra. Có thể do chế độ ăn uống lạm dụng quá nhiều tinh bột và chất béo, hoặc do ăn quá nhanh nên nhai không kỹ, hoặc ăn xong đi nằm ngay, hoặc do lạm dụng các chất kích thích như rượu, cà phê, thuốc lá...


đầy bụng khó tiêu
Rứa rất tốt cho phòng đầy bụng khó tiêu

Triệu chứng đầy bụng khó tiêu:


Đầy bụng khó tiêu cũng có thể xẩy ra do hoạt động của nhu động ruột dạ dày giảm sút, từ đó dạ dày đẩy thức ăn xuống ruột chậm, gây ứ trệ.
Ngoài chế độ sinh hoạt và ăn uống không hợp lý, đầy bụng khó tiêu còn biểu hiện của các bệnh như viêm loét dạ dày, tá tràng, trào ngược dạ dày thực quản, hoặc ung thư dạ dày.
Người mắc các bệnh rối loạn chuyển hoá như đái tháo đường, bệnh cường giáp, thiểu năng giáp trạng, người bị rối loạn tim mạch, mắc bệnh về gan... cũng có thể mắc chứng này.
Trong rất ít trường hợp, đầy bụng, khó tiêu còn biểu hiện của căn bệnh ung thư tiềm tàng.
Khi bị đầy bụng, khó tiêu, người bệnh có cảm giác bụng đầy hơi và ậm ạch, đôi khi sau bữa ăn cảm thấy buồn nôn, hoa mắt, chóng mặt, hoặc ợ chua, ợ nóng, nhiều trường hợp cảm thấy bụng căng chướng và đau âm ỉ...
Nếu đầy bụng khó tiêu do các bệnh lý gây ra thì phải điều trị dứt điểm bệnh. Nếu đầy bụng, khó tiêu do chế độ ăn uống, sinh hoạt thì phải điều chỉnh sao cho hợp lý. 

Một số trái cây giúp giảm đầy bụng khó tiêu:

Các thầy thuốc khuyên rằng, chế độ ăn uống giàu chất xơ (gồm các loại rau xanh, trái cây và ngũ cốc thô chưa qua tinh chế) và uống nhiều nước sẽ phòng tránh được đầy bụng.
Đặc biệt, các loại quả như táo, dứa và lê rất tốt cho việc phòng đầy bụng, khó tiêu. Trong táo chứa các chất như pectin, pro-topectin - là chất xơ tan nhanh, có tác dụng điều hoà hoạt động tiêu hoá của ruột.

Cần biết rằng, ăn quả táo tốt hơn là uống nước táo bởi lượng chất xơ trong quả táo rất cao.
Quả dứa có chứa chất bromelin, giúp thúc đẩy sự hấp thu protein trong thức ăn, vì thế có tác dụng kích thích tiêu hoá. Dứa cũng có nhiều chất xơ, trung bình 100g dứa chứa 1,8g chất xơ.
Lê là loại quả chứa nhiều chất xơ, giúp hấp thu nước trong cơ thể. Khi hấp thu đủ lượng nước, các chất xơ này phồng lên và thúc đẩy hoạt động tiêu hoá của ruột được nhanh hơn.
Ngoài ra, bạn nên sử dụng các vị thảo dược có tác dụng kích thích tiêu hoá như: trà hoa cúc, trà atiso, nước ngò (rau mùi), thìa là... và thay vì sử dụng các loại nước đóng hộp có ga nên sử dụng nước lọc tinh khiết hoặc nước cà rốt, nước cần tây, đặc biệt là nước chè xanh.
Bạn cũng có thể sử dụng gừng giúp tiêu trừ đầy bụng bởi gừng giúp kích thích sự bài tiết mật, tăng cường hoạt động của các enzyme tham gia vào quá trình tiêu hoá thức ăn.

Lưu ý, thư giãn cơ thể, hít thở sâu, đi bộ và vận động cơ thể nhẹ nhàng sau bữa ăn là một trong những biện pháp hữu hiệu phòng tránh đầy bụng, khó tiêu.


December 1, 2012

Tác hại của rượu đến bệnh liệt dương

Tác hại của rượu đến bệnh liệt dương


Tác hại của rượu rất nguy hiểm. Giai đoạn đầu của liệt dương thứ phát có liên quan đến uống rượu, bệnh có thể tệ hơn nếu bạn tiếp tục lạm dụng rượu. Các đấng mày râu, muốn duy trì phong độ và sự nam tính của mình, xin đừng đùa với rượu.



tác hại của rượu
Tác hại của rượu đến liêt dương


Rượu như một phù thủy có phép thuật, có thể biến một người đàn ông khỏe mạnh, rất “ổn” trở thành một người không còn một chút nam tính, thậm chí bạn còn trở thành một bệnh nhân của bệnh vô sinh...

Một nguyên nhân gây liệt dương:

Rất nhiều người cho rằng rượu gây hưng phấn tình dục, thực tế cũng có những trường hợp đúng như vậy. Tuy nhiên, điều này chỉ đúng trong giới hạn nhất định nào đó.

Tửu lượng của mỗi người là rất khác nhau, nếu bạn vượt ngưỡng thì lúc đó điều chắc chắn là rượu sẽ làm suy giảm khả năng tình dục của bạn.

Giai đoạn đầu của liệt dương thứ phát có liên quan đến uống rượu, bệnh có thể tệ hơn nếu bạn tiếp tục lạm dụng rượu.

Khoa học đã chỉ ra rằng rượu là một nguyên nhân gây liệt dương ở nam giới, do làm giảm mức testosteron - hormone sinh dục nam có tác dụng duy trì đòi hỏi tình dục và kích thích tuyến tiền liệt, túi tinh bài xuất tinh dịch.

Như vậy, có thể nói rượu làm giảm hoặc làm mất đòi hỏi tình dục, có thể gây vô sinh nam do không đủ về số lượng tinh dịch, số lượng tinh trùng và hình thái tinh trùng.

Thông thường, lượng tinh dịch từ 2 đến 5ml, có 20 triệu tinh trùng/ml, trên 60% số lượng tinh trùng ở dạng hoạt động mạnh và trên 60% tinh trùng có hình thái bình thường.

Nếu bạn quan hệ tình dục trong trạng thái say rượu có thể làm tổn thương về tình cảm hoặc có thể gây lãnh cảm cho bạn tình của mình vì những lý do thần kinh tâm thần của bạn. Trong lúc say rượu bạn có thể có những lời nhận xét, so sánh bột phát không suy nghĩ làm tổn thương hoặc xúc phạm bạn tình của mình.

Với người nghiện rượu mãn tính, cơ thể thiếu vitamin B1 gây ra bệnh não, làm giảm hoặc mất khả năng tình dục như - xuất tinh sớm - không đạt được cực khoái, không có khả năng cương cứng...

Và các tác hại của rượu khác

Rõ ràng, lạm dụng rượu không làm cho bạn mạnh mẽ hơn, đàn ông hơn mà còn làm cho bạn mắc phải hội chứng lệ thuộc rượu. Lệ thuộc rượu có nhiều biểu hiện khác nhau, phối hợp với nhau và thay đổi tùy thuộc vào mỗi người.

Biểu hiện có thể nhận thấy là sự biến đổi về nhân cách: khả năng kiềm chế, nóng giận, ghen tuông, dễ bị kích động, giận dữ đột ngột, hành vi gây gổ...

Các biểu hiện khác như ăn mặc cẩu thả; thờ ơ với việc ăn uống; thay đổi thời điểm uống từ buổi chiều sang buổi sáng, thay vì uống bia chuyển sang uống rượu mạnh; hứa hẹn cai rượu nhiều lần...

Nếu bạn là người nghiện rượu, cơ thể bạn sẽ lâm vào tình trạng rối loạn các chức năng. Bạn bị đau bụng, chuột rút, chân tay đờ đẫn, run, cảm giác kiến bò, mạch không đều, mặt đỏ, đi lại không vững, nói năng lẫn lộn, nhíu lưỡi, suy nghĩ chậm chạp, trí nhớ giảm sút... Lúc này, rượu là chất độc kích thích cơ thể, làm hạ đường huyết, tăng triglycerid trong máu tác động xấu đến tim, gan, mạch máu, gây tổn thương ở nhiều cơ quan khác nhau.

Người nghiện rượu ăn ít vì số calo do rượu cung cấp có thể bù đắp cho những nhu cầu năng lượng của cơ thể, nhưng số calo này không có nguồn gốc là protein, vitamin và muối khoáng vì thế người nghiện rượu thường bị suy dinh dưỡng.

Nếu bạn không muốn là một bệnh nhân gan hay bệnh nhân mắc các bệnh về các cơ quan tiêu hoá; bệnh ung thư; các bệnh tim mạch; bệnh thần kinh - tâm thần… thì hãy đừng là một người nghiện rượu nhé.

Xem thêm các chủ đề khác:

Tác hại của rượu đối với thai phụ

Tác hại của rượu đối với thai phụ



Các nhà khoa học Anh cho biết tác hại của rượu đối với thai phụ là rất nguy hiểm, họ đã có bằng chứng cho thấy dù thai phụ chỉ dùng một lượng nhỏ rượu trong thai kỳ cũng có thể làm ảnh hưởng đến trí thông minh của em bé sau này.




Thử nghiệm tác hại của rượu trên các bà mẹ đang mang thai:

Nhóm nghiên cứu của các nhà khoa học thuộc Đại học Oxford và Bristol (Anh) mới đây đã công bố kết quả nghiên cứu cho thấy, ngay cả khi các bà mẹ uống ít hơn 6 ly rượu mỗi tuần cũng có thể làm giảm chỉ số thông minh IQ của trẻ khi chúng được 8 tuổi. Đây là kết quả phân tích gene hơn 4000 bà mẹ và em bé. 
Những phụ nữ tham gia đã được yêu cầu cung cấp thông tin về mức tiêu thụ rượu của họ trong thời kỳ mang thai. Sau đó, chỉ số IQ của những đứa con họ đã được thử nghiệm vào thời điểm khi chúng được 8 tuổi.
Kết quả nghiên cứu phát hiện rằng, bốn biến thể gen chuyển hóa rượu ở trẻ có liên quan mạnh mẽ đến việc giảm chỉ số IQ. Tính trung bình, chỉ số IQ của những đứa trẻ giảm gần hai điểm khi chúng có mỗi bốn biến thể gen này.
Tiến sĩ Ron Gray, dẫn đầu nhóm nghiên cứu, hi vọng rằng kết quả mới công bố đủ sức chứng minh rằng chỉ cần uống một lượng nhỏ rượu trong thai kì cũng có thể ảnh hưởng đến tương lai của trẻ. Từ đó, các cơ quan y tế Anh sẽ có khuyến cáo hợp lý hơn đến các thai phụ. Còn các bà mẹ, sẽ có được lựa chọn đúng đắn để hạn chế đồ uống có cồn. 

Xem thêm:

Biện pháp hạn chế tác hại của rượu với sức khỏe


Một số biện pháp hạn chế tác hại của rượu với sức khỏe

Trong những cuộc vui, cuộc gặp gỡ, trong nhiều bữa tiệc, nhất là trong dịp đầu xuân, rượu được coi là một thức uống đưa đẩy, làm tăng “không khí” vui vẻ. Sau mỗi lần như thế, nhiều người không tránh khỏi sự choáng váng, ngà ngà của men rượu. Để có thể giảm bớt những tác hại của rượu đối với sức khỏe, không phải từ bỏ các cuộc vui ngày đầu năm, chúng tôi xin đưa ra một số điểm cần lưu ý trong việc sử dụng rượu mà mọi người cần biết ở dưới đây.
tác hại của rượu
Người tăng huyết áp dễ bị chảy máu não nếu uống nhiều rượu.

Không uống quá nhiều rượu:

Uống rượu quá nhiều, độ cồn trong rượu sẽ làm cho biểu bì não ở trong trạng thái tê liệt hoặc quá phấn khích, lúc đó sẽ mất đi kiểm soát ý thức. Một số người có bệnh lý mạch máu não nếu uống nhiều rượu dễ dẫn tới các hậu quả nghiêm trọng; ví dụ người mắc bệnh xơ cứng động mạch dễ bị thiếu máu não, người tăng huyết áp dễ bị chảy máu não. Nói chung, để đảm bảo sức khỏe nên uống rượu bia theo sức khỏe của mình, nhưng với rượu trắng thì không nên vượt quá 50ml, uống bia thì không quá 1 chai.

Không uống rượu khi đói bụng:

Khi dạ dày trống mà uống rượu, nhất là rượu mạnh sẽ gây tổn thương cho dạ dày, thực quản; ngoài ra còn làm tăng khả năng hấp thu cồn vào trong máu. Một số công trình thực nghiệm đã chứng minh, nếu uống rượu khi dạ dày trống chỉ cần 30 phút, chất cồn sẽ gây hại cho cơ thể ở mức độ cao nhất. Vì vậy trước khi uống rượu chúng ta nên ăn một chút tinh bột và uống một chút nước.

Không nên uống rượu lạnh:

Đơn giản là vì trong rượu bao giờ cũng có một lượng andehit, nhất là các loại rượu chưng cất thủ công thì hàm lượng andehit càng cao. Sự nguy hại của andehit đối với cơ thể nguy hiểm hơn cả cồn, nhưng độ sôi của andehit thấp, chỉ có khoảng 20oC. Vì vậy, chỉ cần làm nóng rượu thì có thể làm cho lượng lớn andehit bốc hơi, như thế sẽ giảm bớt nguy hại cho cơ thể.

Không nên uống nhiều loại rượu cùng một lúc:

Nói chung, các loại rượu khác nhau có nguồn gốc và thành phần tạp chất khác nhau, đặc biệt nếu uống chung cả hai loại rượu lên men (bia, rượu vang…) với rượu chưng cất (rượu trắng) sẽ gây ra đau đầu, buồn nôn và dễ say do rượu lên men hàm lượng cồn thấp nhưng tạp chất cao; ngược lại rượu chưng cất nồng độ cồn lại lớn, hai loại này phản ứng khác nhau trong cơ thể.

Không uống rượu với nước có ga:

Khi uống rượu chung với nước có ga sẽ làm cho cồn nhanh chóng lan tỏa khắp toàn thân, đồng thời sản sinh ra lượng lớn CO2 gây nguy hại cho gan, thận và dạ dày, đường ruột. Nó kích thích niêm mạc dạ dày, giảm bớt vị toan bài tiết ảnh hưởng tiêu hóa, đồng thời người mắc bệnh dạ dày đường ruột nếu sau khi uống rượu uống nước có ga thì sẽ làm cho ruột và dạ dày chảy máu. Nước có ga cũng khiến cồn nhanh chóng thẩm thấu vào hệ thần kinh trung ương, gây tăng huyết áp nhanh.

Không vừa uống rượu vừa hút thuốc:

Khi uống rượu mạch máu giãn nở, đẩy nhanh tuần hoàn máu trong cơ thể; còn chất nicotin trong thuốc lá lại dễ hòa tan trong nước. Vì vậy, khi uống rượu mà hút thuốc sẽ đẩy nhanh tốc độ hấp thụ chất nicotin trong cơ thể. Ngoài ra, do tác dụng độc tố của cồn có thể ảnh hưởng đến chức năng giải độc của gan đối với chất nicotin.

Không tắm sau khi uống rượu:

Sau khi uống rượu đi tắm sẽ tăng nhanh tiêu hao chất đường tích trữ trong cơ thể, làm cho đường huyết hạ thấp, thân nhiệt giảm nhanh. Ngoài ra cũng cần chú ý, sau khi uống rượu mà gặp lạnh sẽ dễ bị cảm lạnh, trúng gió, tê liệt và có thể gặp các tai biến khác.

Không uống thuốc sau khi uống rượu:

Sau khi uống rượu, cồn bắt đầu gây tác dụng hưng phấn ngắn đối với hệ thống thần kinh, sau đó chuyển thành ức chế. Nếu trong lúc này uống thuốc an thần, thuốc ngủ hoặc các loại thuốc chống dị ứng có tác dụng an thần và cả thuốc cảm hàm chứa các thành phần trên, sẽ làm cho huyết áp hạ thấp, tim đập chậm, hô hấp khó, thậm chí gây tử vong. Ngoài ra, sau khi uống rượu, mà uống các thuốc như thuốc giảm đau, thuốc chống viêm… đều dễ làm cho dạ dày xuất huyết, thậm chí thủng dạ dày. Rượu còn gây ảnh hưởng đến tác dụng dược lý của nhiều loại thuốc khác, làm tăng nguy cơ xuất hiện tác dụng phụ của thuốc, gây nguy hại cho cơ thể.

 Không uống rượu khi mang thai:

Uống rượu sẽ làm cho não và tim của thai nhi bị độc hại do cồn, làm cho thai nhi phát triển trì trệ, tỉ lệ tử vong tăng cao, sau khi ra đời cũng có ảnh hưởng đến trí tuệ và thể lực.

Xem thêm:


November 28, 2012

Một số bệnh truyền nhiễm dễ mắc phải cần quan tâm

Một số bệnh truyền nhiễm rất dễ mắc phải cần quan tâm

Tác nhân của các bệnh truyền nhiễm là do vi khuẩn hoặc virus, trong đó tác nhân do virus ngày càng tăng, độc lực càng cao và diễn biến phức tạp hơn trước đây (nếu như bệnh đã có từ trước, nay bộc phát). Một số bệnh truyền nhiễm điển hình đó là: Tay - chân - miệng, sốt xuất huyết, tả, cúm A H5N1, cúm A H1N1.

Vi trùng gây bệnh truyền nhiễm
Vi trùng gây bệnh truyền nhiễm

Bệnh tay - chân - miệng (Hand-Foot-Mouth Disease HFMD):

Là một bệnh do nhiễm virus đường ruột (enterovirus), thường gặp nhất là Coxsackievirus A16 và Enterovirus 71 (EV 71). Bệnh tập trung chủ yếu là trẻ dưới 5 tuổi, nhất là trẻ 1-2 tuổi. Bệnh cũng có thể gặp ở người trưởng thành. Khoảng 75% người lớn có virus tay - chân - miệng nhưng không có biểu hiện bệnh lý gọi là người lành mang trùng (carrier). Đây là đối tượng rất khó quản lý nhưng dễ phát tán mầm bệnh. Năm 2011, Việt Nam đã trở thành quốc gia có tỷ lệ người mắc bệnh T-C-M cao thứ 2 thế giới, sau Trung Quốc. Tại khu vực phía Nam, số mắc bệnh T-C-M chiếm 65,5% và số chết chiếm 89,2% so với cả nước. Thành phố Hồ Chí Minh có số mắc cao nhất nước, Tiền Giang có số mắc đứng hàng thứ 7 so với cả nước. Tính đến ngày 13/11/2011, số ca mắc bệnh T-C-M trên địa bàn tỉnh ta là 2.948, tăng 6,82 lần so với cùng kỳ năm 2010, trong đó tử vong 5 trường hợp. Bệnh T-C-M chưa có vaccine phòng ngừa và chưa có thuốc điều trị đặc hiệu, nhưng lại lây lan nhanh và diễn biến phức tạp, nhanh chóng, dễ gây ra tử vong. Biện pháp phòng ngừa chính là giữ vệ sinh tốt và hạn chế tiếp xúc với nguồn bệnh. Biện pháp phòng ngừa đơn giản, dễ thực hiện nhất nhưng hiệu quả nhất là rửa tay sạch bằng xà phòng thường xuyên trước khi ăn, sau khi đi vệ sinh, thay tả, chăm sóc người bệnh hoặc sau khi tiếp xúc với các chất tiết của người bệnh.

Bệnh Sốt xuất huyết (Dengue Heamorrhagic Fever):

Là một loại bệnh lý truyền nhiễm do virus Dengue (D1, D2, D3, D4) gây ra. Tại Việt Nam, sốt xuất huyết có số mắc đứng hàng thứ năm trong bệnh truyền nhiễm, nhưng có số tử vong đứng đầu trong 26 bệnh được ghi nhận từ năm 2001 đến 2007. Theo ghi nhận, SXH có chu kỳ bùng phát dịch lớn mỗi 10 năm, trong đó 85% các trường hợp SXH xảy ra tại khu vực phía Nam. Trong những năm gần đây, SXH có khuynh hướng gia tăng tại các tỉnh phát triển công nghiệp (TP. Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa Vũng Tàu...). Tại Tiền Giang, tính đến ngày 20/11/2011, tổng số ca mắc SXH là 2.933 (giảm 47,29% so với cùng kỳ năm trước) và đã tử vong 01 trường hợp. SXH hiện cũng chưa có thuốc điều trị đặc hiệu và chưa có vaccine phòng ngừa. Biện pháp phòng ngừa là "không có muỗi, không có lăng quăng thì không có sốt xuất huyết".

Bệnh tả (Cholerae):

Là một bệnh nhiễm trùng đường ruột, do phẩy trùng Vibrio cholerae gây ra. Độc tố của vi trùng này gây tiêu chảy nặng kèm theo mất nước. Các triệu chứng điển hình là nôn mửa nhiều và tiêu chảy liên tục rất nhiều lần với khối lượng lớn, có khi hàng chục lít một ngày với phân toàn nước, có màu trắng lờ đục như nước vo gạo; bệnh nhân không sốt (có khi lạnh cả người) và ít khi đau bụng. Bệnh nhân mất nước và chất điện giải nhanh chóng, dễ bị trụy tim mạch, gây shock mất nước và có thể tử vong nếu không được bù nước và điện giải kịp thời.

Tại khu vực phía Nam, bệnh tả giảm đi rất rõ rệt kể từ năm 1995. Tỉnh Tiền Giang đã 3 ca bệnh tả vào năm 2010 sau 13 năm liên tục không có ca bệnh tả. Bệnh tả đã có thuốc điều trị và có vaccine phòng ngừa. Biện pháp phòng ngừa bệnh tả là giữ gìn tốt vệ sinh cá nhân, vệ sinh môi trường, bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm, sử dụng nước sạch và xử trí ngay những trường hợp mắc hoặc nghi ngờ bệnh tả để tránh lây lan.

Cúm A H5N1 còn gọi là cúm chim hoang dã hay gia cầm (Bird Flu, Avian Influenza):

Là một dạng bệnh đường hô hấp do virus cúm A phân nhóm H5N1 gây ra, với các triệu chứng thường gặp: sốt, nhức đầu, đau cơ, mệt mỏi, sổ mũi, đau họng, ho khan, sau đó nhanh chóng dẫn đến viêm phổi nặng với ho có đàm, đau ngực, khó thở tím tái, nếu không điều trị kịp thời sẽ suy hô hấp, shock nhiễm trùng, suy đa phủ tạng, hôn mê rồi tử vong. Nguồn bệnh là gia cầm, thủy cầm bị bệnh thải virus qua chất tiết và phân.

Cúm A H5N1 phát hiện đầu tiên tại Việt Nam vào năm 2003, từ đó đến nay xảy ra rải rác tại khắp các tỉnh thành trong cả nước. Tại Tiền Giang đã ghi nhận 2 ca mắc và tử vong cả 2 do cúm A H5N1 (tại Cai Lậy vào năm 2005 và tại Cái Bè vào năm 2010), tỷ lệ tử vong 100%. Biện pháp phòng ngừa cúm A H5N1 là giữ vệ sinh cá nhân, vệ sinh ăn uống (ăn chín, uống chín), không sử dụng thịt hoặc các sản phẩm từ gia cầm, thủy cầm bị bệnh (nhất là tiết canh) và tránh tiếp xúc với nguồn bệnh.

Cúm A H1N1:
Cũng có những triệu chứng của cúm thông thường là sốt, nhức đầu, đau cơ, mệt mỏi, sổ mũi, đau họng, ho khan... Bệnh cúm A H1N1 thường diễn biến không nặng và không cần điều trị đặc biệt, trừ những trường hợp xảy ra trên những đối tượng có nguy cơ cao như: phụ nữ mang thai, trẻ em, người già, người mắc các bệnh mãn tính như phổi mãn tính, bệnh tim mạch, tiểu đường, hen phế quản, lao phổi, người nhiễm HIV/AIDS, béo phì, suy dinh dưỡng... là những nhóm dễ bị biến chứng nguy hiểm, có khả năng tử vong. Bệnh lây truyền trực tiếp từ người sang người thông qua giọt bắn từ ho khạc, hắt hơi, nước mũi hoặc từ các chất tiết dính vào bề mặt các vật dụng.

Năm 2009, tại Tiền Giang có 204 ca mắc bệnh cúm A H1N1 nhưng không có tử vong. Năm 2011, tỉnh có 3 ca mắc bệnh cúm A H1N1, trong đó có 1 tử vong do có kèm theo bệnh cảnh cao huyết áp + thiếu máu cơ tim/ hen phế quản.

Để chủ động ngăn ngừa dịch cúm A H1N1, người bệnh nên đeo khẩu trang hoặc che miệng khi ho, không khạc nhổ bừa bãi để hạn chế lây lan cho người thân và cộng đồng. Người chưa mắc bệnh cần tránh tiếp xúc với người bệnh, đeo khẩu trang khi đến nơi đông người, giữ vệ sinh cá nhân thông qua việc thường xuyên rửa tay bằng xà phòng, súc miệng hàng ngày bằng nước sát khuẩn, ăn thức ăn đủ chất dinh dưỡng để nâng cao thể trạng.

Xem thêm: