Showing posts with label ung-thu-gan. Show all posts
Showing posts with label ung-thu-gan. Show all posts

April 25, 2013

Sự kỳ diệu của bài thuốc gia truyền trị ung thư

Ung thư là một trong những bệnh hiểm nghèo mà cho đến nay y học thế giới vẫn còn bó tay; Có chăng cũng chỉ là phương pháp điều trị kiềm chế sự phát triển của tế bào ung thư, kéo dài thêm sự sống của bệnh nhân mà thôi.

Chính vì thế, khi nghe một số bạn bè và một vài tờ báo ở Thủ đô nói về lương y Trần Gia Đạt chữa trị thành công hàng trăm trường hợp bị ung thư, tôi vẫn chưa tin và quyết định đến phòng khám của ông ở số nhà 46, tổ 24, ngõ 325 Kim Ngưu, phường Thanh Lương, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội.

Thấy chúng tôi đến, ông nói: “ Các anh thông cảm chờ tôi 30 phút nữa nhé. Tôi đang cân thuốc cho bệnh nhân”. Phòng khám khá rộng, trên bàn và tủ có tới trên 60 chiếc hộp đựng các loại thuốc và đều là thuốc đã tán thành bột.

Dừng tay, ông mời chúng tôi uống nước. Để khỏi mất thời gian chúng tôi đi ngay vào vấn đề… Ông cười hiền hậu: “Thật tình tôi rất bận, các anh thông cảm; tốt nhất là tôi cho các anh xem toàn bộ số hồ sơ bệnh án mà tôi đã điều trị thành công, hy vọng có thể giúp anh điều gì đó. Nếu vấn đề gì các anh thấy chưa rõ thì tôi sẽ trao đổi lại”.

Nhìn chồng hồ sơ bệnh án, tôi thật sự ái ngại. Tôi nói với ông: “Chúng tôi không có điều kiện nghiên cứu hết số hồ sơ bệnh án này, ông có thể giới thiệu cho tôi những trường hợp điển hình về điều trị ung thư gan, phổi, dạ dày… mà ông đã điều trị thành công”.

Ông cẩn thận rút trong chồng hồ sơ bệnh án lấy ra cho tôi 8,9 bộ hồ sơ bệnh án: gồm 3 bệnh nhân ung thư gan, 3 bệnh nhân ung thư phổi, 1 bệnh nhân ung thư não, một bị ung thư dạ dày và một bị vảy nến á sừng rất nặng. Trong mỗi bệnh án, đều có những thông tin về tên, tuổi, địa chỉ cụ thể của bệnh nhân; đặc biệt là có số di động của bệnh nhân hoặc người thân của họ. Sau khi xem hồ sơ bệnh án để đảm bảo mắt thấy tai nghe, dựa trên địa chỉ và số điện thoại có trong bệnh án chúng tôi liên lạc hoặc tìm đến bệnh nhân.

Những điều mắt thấy tai nghe

Mình xin lấy dẫn chứng về bệnh nhân bị ung thư gan đã được lương y Trần Gia Đạt điều trị thành công. Bệnh nhân là Nguyễn Khắc Lâm

34 tuổi, hộ khẩu thường trú: Tổ 58, thị trấn Đông Anh, Hà Nội. Rất may là tôi gặp anh Lâm tại phòng khám của lương y Trần Gia Đạt.

Anh kể cho chúng tôi: Cách đây 4 năm tự nhiên em thấy người mệt mỏi, đau bụng và sút cân rất nhanh. Người nhà đưa em đi khám ở Khoa u bướu bệnh viện Thanh Nhàn. Qua xét nghiệm, chụp, chiếu, siêu âm, các bác sĩ kết luận em bị ung thư gan với 4 khối u ở gan. U to nhất là 10cm; tế bào ung thư trong máu trên 1.000. Sau 17 ngày nằm điều trị ở bệnh viện nhưng bệnh tình không thuyên giảm, gia đình đưa em về nhà chữa thuốc Nam. Thời gian này, có người thân mách cứ đến cắt thuốc ở lương y Đạt, biết đâu gặp thầy gặp thuốc. Thế là vợ em đi cắt thử 1 đợt với suy nghĩ “còn nước còn tát”.

Điều kỳ diệu đã đến với em. Sau 6 tháng uống thuốc của lương y Đạt, em thấy người khỏe ra, ăn ngủ tốt và tăng cân. Và em liên tục uống thuốc cho đến hôm nay. Hai năm kể từ ngày mắc bệnh, sau khi uống thuốc của lương y Đạt, em đến bệnh viện kiểm tra, xét nghiệm lại thì 4 khối u trong gan không còn nữa. Tế bào ung thư trong máu hiện còn là 1,7- dưới mức cho phép rất xa. Em thấy hạnh phúc vô cùng. Và bây giờ, em tình nguyện giúp việc ở đây. Thầy Đạt- người đã cứu sống em.

Cây xạ đen chữa bệnh ung thư

Thông tin về cây xạ đen có thể điều trị ung thư gan là thật hay hư???

Cây xạ đen còn được gọi là cây dây gối, quả nâu, người dân tộc gọi là cây chua benh ung thu, tên khoa học Celatstrushindsu thân cây dạng dây dài 3-10m. Lúc non có màu xám nhạt, sau chuyển sang màu nâu, có long, về sau có màu xanh.



Theo đông y thì cây xạ đen có vị đắng chát, tính hàn, có tác dụng hữu hiệu trong điều trị mụn nhọt, ung thư, tiêu viêm, giải độc, giảm tiết dịch trong xơ gan cổ chướng và đặc biệt trong chữa trị ung thư. Trong tài liệu nghiên cứu mới nhất của Viện quân y 103 đã công nhận tác dụng chữa trị bệnh của cây xạ đen là làm hạn chế sự phát triển của các khối u trong cơ thể người bệnh Công dụng: Phòng chống ung thư, lở ngứa, mụn nhọt, điều trị ức chế và ngăn ngừa sự phát triển của tế bào ung thư, tiêu hạch, tiêu độc, thanh nhiệt, mát gan, điều hòa hoạt huyết, giảm đau, an thần, tăng cường sức đề kháng cho cơ thể.

Công dụng: Phòng chống ung thư, lở ngứa, mụn nhọt, điều trị ức chế và ngăn ngừa sự phát triển của tế bào ung thư, tiêu hạch, tiêu độc, thanh nhiệt, mát gan, điều hòa hoạt huyết, giảm đau, an thần, tăng cường sức đề kháng cho cơ thể.

Liều lượng và cách dung: Lấy khoảng 100g xạ đen rửa sạch cho vào ấm đun sôi khoảng 10-15 phút chắt lấy nước uống hàng ngày

Qua nghiên cứu về thực vật học, hoá dược, dược lý, nghiên cứu thực nghiệm trên động vật được gây ung thư (theo đề tài cấp Bộ về xạ đen do GS. Lê Thế Trung làm chủ nhiệm), các bác sĩ đã thư hơn nhiều chất đã qua nghiên cứu thực nghiệm như Trinh nữ hoàng cung hay tỏi Thái Lan. phát hiện ở loài cây này tác dụng hạn chế sự phát triển của khối u ác tính. Hơn nữa, theo GS. Trung, hợp chất lấy từ xạ đen nếu được kết hợp với chất Phylamin (lấy từ một loại thảo dược ở đồng bằng) còn phát huy tác dụng, kéo dài tuổi thọ trung bình của động vật bị ung.

Đến cuối năm 1999, đề tài của các bác sĩ Học viện Quân y được nghiệm thu, cây xạ đen chính thức được công nhận là một trong không nhiều những vị thuốc nam có tác dụng điều trị hỗ trợ bệnh nhân ung thư. Cuối năm 2002, người bệnh mới biết đến loài cây này qua câu chuyện của GS. Trung trong Chương trình Người đương thời (VTV3).

Xem thêm: chữa xơ gan cổ chướng giai đoạn đầu | thuoc tri benh gan | cach dieu tri ung thu gan


April 16, 2013

Phẫu thuật điều trị ung thư gan

Phẫu thuật là chọn lựa điều trị ung thư gan

Do đó, bệnh nhân nghi ngờ ung thư gan cần được bác sĩ phẫu thuật gan được đào tạo bài bản đánh giá một cách cẩn trọng. Phòng khám Gan Mật thuộc Viện Ung Thư Quốc Gia Singapore cung cấp một qui trình chẩn đoán phối hợp, được tiến hành bởi một đội ngũ chuyên gia gồm các bác sĩ phẫu thuật gan tuỵ mật chuyên môn cao và dày dạn kinh nghiệm.


Phẫu thuật gan hay cắt bỏ gan là gì
Các khối u gan – bất kể là ung thư gan giai đoạn đầu (viêm tế bào gan, HCC) hay ung thư lan toả (di căn) đến gan là hậu quả của ung thư đại tràng - đều được điều trị tốt nhất bằng phẫu thuật.

Phẫu thuật gan để loại bỏ khối u hay cắt bỏ gan bao gồm việc loại bỏ những vùng gan đã bị khối u hủy hoại để lấy toàn bộ khối u có rìa rõ ràng ra nhằm giành lại quyền kiểm soát và điều trị khối u. Tất cả các quy trình này đều được các bác sĩ phẫu thuật chuyên khoa phẫu thuật gan tuỵ mật (HPB) thực hiện.

Đối tượng phục vụQui trình này dành cho các bệnh nhân viêm gan thời kỳ đầu (HCC) và là biện pháp điều trị duy nhất được chấp nhận đồng thời là phương pháp điều trị hiệu quả cho bệnh nhân ở giai đoạn này. Phẫu thuật gan cũng khả thi đối với khối u di căn lan tỏa đến gan do ung thư đại trực tràng.

Đối với ung thư thời kỳ sau như u gan do di căn, lợi ích của bệnh nhân sẽ được cân nhắc bằng cách phối hợp liệu pháp hóa trị và phẫu thuật.

Tại sao cần kiểm tra sức khỏe định kỳ để phát hiện sớm ung thư gan?

Để đạt hiệu quả tốt trong điều trị ung thư gan đòi hỏi phải có sự kết hợp và gắn kết của nhiều chuyên ngành y học, y tế: dịch tễ học, khám đa khoa, chuyên khoa, chẩn đoán hình ảnh, xét nghiệm, mô bệnh học, phẫu thuật, ung thư và truyền thông y tế.

Mục tiêu của dieu tri ung thu gan, cũng như các bệnh ung thư khác, là loại bỏ tổ chức ung thư, kéo dài tuổi đời sau điều trị và đảm bảo chất lượng cuộc sống sau điều trị cho người bệnh. Giảm thiểu tối đa gánh nặng kinh phí cho người bệnh, gia đình người bệnh và cho xã hội.

Để đạt được mục tiêu này thì việc phát hiện bệnh ở giai đoạn sớm và giai đoạn rất sớm có vai trò ý nghĩa quyết định.

Ung thư tế bào gan dù được điều trị đúng và điều trị ở giai đoạn sớm hay rất sớm thì vẫn có khả năng bị tái phát.

Alpha-fetoprotein (AFP - αFP) là dấu ấn sinh học được sử dụng nhiều nhất và phổ biến nhất trong chẩn đoán và sàng lọc ung thư tế bào gan. Tuy nhiên việc sử dụng đơn thuần xét nghiệm AFP có khả năng bỏ xót khoảng 40% bệnh nhân, do vậy cần phải kết hợp với chẩn đoán hình ảnh, phổ biến nhất là siêu âm.

Thời gian làm xét nghiệm và kiểm tra định kỳ trung bình là 6 tháng/1 lần.

   · Tuy nhiên ở bệnh nhân có bệnh lý gan mạn tính (đặc biệt là do vi-rút viêm gan B, viêm gan C), xơ gan có nhân xơ tái sinh cần được theo dõi sát hơn và khoảng cách theo dõi nên là 3 tháng/1 lần.

   · Người bệnh sau điều trị ung thư tế bào gan nên được theo dõi theo lộ trình sau: sau 01 tháng điều trị - sau 03 tháng điều trị và cứ 3 tháng/1 lần trong vòng tối thiểu 2 năm đầu sau điều trị.

   · Tất cả người bệnh lần đầu tiên phát hiện có khối U gan với kích thước lớn hơn 1cm, nên làm chẩn đoán chuyên sâu với chẩn đoán hình ảnh: chụp CT đa dãy có tiêm thuốc cản quang, chụp cộng hưởng từ hạt nhân (MRI) có tiêm thuốc đối quang từ hay siêu âm có tiêm thuốc cản âm.

   · Khi các dữ liệu chẩn đoán hình ảnh và xét nghiệm máu không đủ kết luận chẩn đoán, nên tiến hành sinh thiết gan.

Các phương pháp điều trị ung thư gan

1. Lựa chọn phương pháp điều trị ung thư gan trên cụ thể từng người bệnh cần dựa vào các yếu tố sau:

· Giai đoạn khối u gan và vị trí khối u gan.
· Giai đoạn bệnh lý của gan: khoảng 80-85% ung thư tế bào gan xuất phát trên nền xơ gan, đặc biệt ở người nhiễm vi-rút viêm gan B và vi-rút viêm gan C mạn tính.
· Tình trạng toàn thân và các bệnh lý khác của người bệnh.

2. Không thể áp dụng một phương pháp điều trị duy nhất cho tất cả người bệnh ung thư tế bào gan.

3. Các phương pháp điều trị ung thư gan

   -  Cắt gan bán phần
   -  Ghép gan
   -  Làm hoại tử và loại bỏ khối u gan bằng đốt điện (RFA: radiofrequency ablation)
   -  Làm hoại tử và loại bỏ khối u gan bằng phương pháp tiêm cồn
   -  Nút mạch: cắt nguồn mạch máu nuôi dưỡng khối u gan (nút mạch có thể kết hợp với hóa chất hoặc kết hợp với chất đồng vị phòng xạ)
   -  Hóa trị liệu, hiện nay có rất nhiều thuốc mới được nghiên cứu thành công và đưa vào áp dụng điều trị thực tiễn như: Sorafenib, Brivanib, Linifanib, Everolimus, Ramicirumab….
   -  Xạ trị liệu: với sự ra đời của thế hệ máy mới nhất hiện nay, Varian True Beam, vai trò của xạ trị liệu trong điều trị ung thư tế bào gan bắt đầu được đề cập - chú ý nhiều hơn. Tuy nhiên kết quả còn cần được kiểm chứng thêm.

Đối với thế hệ máy xạ trị liệu từ Gamma-knife và Cyber-knife trở về trước: chưa được các tổ chức Khoa học - Y học có uy tín của Hoa Kỳ, châu Âu, châu Á-Thái Bình Dương, Nhật Bản…. khuyến cáo coi đó là phương pháp thường qui trong điều trị ung thư tế bào gan.

Chú ý: Một số phương pháp điều trị ung thư tế bào gan khác không đề cập đến. Các phương pháp đó một là do hiệu quả điều trị không đáng kể hoặc chưa đủ số liệu kiểm chứng, hai là có quá nhiều tác dụng phụ không mong muốn mà kết quả đạt được lại không cao. Do vậy các phương pháp đó hiện nay không được các tổ chức Khoa học – Y học có uy tín đề cập đến trong các khuyến cáo chính thức và nhiều phương pháp hiện nay các nền Y học tiên tiến không sử dụng - áp dụng trong điều trị.

March 26, 2013

Rất khó để phát hiện được bệnh ung thư gan

Bệnh nhân Võ Thị Kim T. 61 tuổi, ở tại trung tâm thành phố Huế, đã đi khám bệnh nhiều lần tại nhiều bệnh viên lớn của TP Huế, chỉ được chẩn đoán men gan cao cho về nhà theo dõi 3-6 tháng. Bệnh nhân không bằng lòng với chẩn đoán và cách theo dõi trên, nên sáng ngày 14/11/2012, BN đã đến tại Phòng Khám Đa Khoa Hoàn Mỹ Huế để khám bệnh. Dấu hiệu lâm sàng được ghi nhận: Thể trạng trung bình, không vàng da, sụt một cân, ăn uống hơi kém, có hiện tượng đầy bụng khó tiêu, người mỏi mệt. Bụng mền, gan lách không lớn, rung gan hơi tưng tức, ngoài ra không tìm thấy dấu hiệu gì đặc biệt. Các thăm dò cận lâm sàng: Men gan cao, bilirubine trực tiếp tăng, mỡ trong máu tăng, đặt biệt AFP tăng cao 330,3ng/ml, siêu âm bụng kết quả ghi nhận theo dõi ung thư gan phải. Chúng tôi cho chụp MSCT 64 bụng có bơm thuốc cản quang kết quả là TD: HCC gan phải.


Hình ảnh gan không tiêm thuốc



Hình ảnh gan sau tiêm thuốc cản quang

MSCT 64 ổ bụng: Ung thư gan phải 


Bệnh nhân được chuyển lên tuyến trên để điều trị tiếp. Chúng tôi đang chờ phản hồi kết quả điều trị.

Bài học kinh nghiệm: Đừng bao giờ bỏ lơ đi một triệu chứng gì dù nhỏ mà BN cung cấp cho chúng ta. Trong BN này chỉ có một triệu chứng rung gan hơi tưng tức, đã gợi ý cho ta hướng về thương tổn tại gan, kèm sụt cân, mệt mỏi, ăn uống kém là hậu quả của ung thư gan đang lớn dần trong cơ thể.

Những điều cần biết về bệnh ung thư gan

Tăng tỉ lệ nhiễm viêm gan B và C là những nguyên nhân hàng đầu gây ung thư gan.

Ung thư gan nguyên phát xảy ra khi các tế bào ung thư (ác tính) bắt đầu lớn lên ở mô của gan. Tuy nhiên, ung thư gan thứ phát (loại ung thư xảy ra khi khối u ở những phần khác của cơ thể di căn tới gan) hay gặp hơn nhiều so với ung thư gan nguyên phát.

Vì ung thư gan hiếm khi được phát hiện sớm nên tiên lượng bệnh thường xấu. Tuy vậy, ngay trong những trường hợp tiến triển, việc điều trị có thể giúp giảm nhẹ các triệu chứng và cải thiện chất lượng sống. Ngoài ra, các phương pháp điều trị chuẩn như phẫu thuật, hoá trị liệu và tia xạ, các liệu pháp mới và ít xâm hại có thể là lựa chọn cho một số người.

Nhưng thông tin khích lệ nhất về ung thư gan là có thể giảm nhiều nguy cơ bị ung thư bằng cách tiêm vaccin phòng chống nhiễm virút viêm gan B (HBV). Những thay đổi về lối sống có thể giúp phòng ngừa các nguyên nhân chính khác gây ung thư gan, như viêm gan C và xơ gan.

Dấu hiệu và triệu chứng ung thư gan:

  -  Hầu hết người bệnh không có các dấu hiệu và triệu chứng trong giai đoạn đầu của ung thư gan, điều đó có nghĩa là bệnh có thể không được phát hiện cho tới khi bệnh khá tiến triển. Khi xuất hiện các triệu chứng, chúng có thể bao gồm một số hoặc tất cả những triệu chứng dưới đây:

  -  Giảm ngon miệng và sút cân

  -  Đau bụng, đặc biệt ở vùng phía trên bên phải của bụng, có thể lan rộng ra lưng và vai

  -  Buồn nôn và nôn

  -  Yếu và mệt mỏi

  -  Gan to lên

  -  Bụng to (cổ chướng)

  -  Mắt và da vàng do hiện tượng tích tụ bilirubin – sản phẩm còn lại của quá trình phá huỷ hồng cầu.

  -  Thông thường, gan xử lý bilirubin để có thể bài tiết nó ra khỏi cơ thể. Nhưng bệnh gan có thể khiến chất này tích tụ trong máu, khiến da và mắt bị vàng và nước tiểu màu nâu sậm.


Các yếu tố nguy cơ:

  -  Ung thư gan có thể xảy ra ở tất cả các độ tuổi và chủng tộc, nhưng một số yếu tố có thể làm tăng nguy cơ bị bệnh, bao gồm:

  -  Giới tính. Nam giới dễ bị ung thư gan gấp 2-3 lần so với nữ giới.

  -  Chủng tộc. Người Mỹ gốc Á có tỷ lệ bị ung thư gan cao nhất ở Mỹ. Người Mỹ da đen và gốc Tây Ban Nha, cũng có tỷ lệ mắc bệnh này cao hơn so với người da trắng.

  -  Nhiễm HBV hoặc virút viêm gan C (HCV) mạn tính. Nhiễm HBV hoặc HCV là yếu tố nguy cơ quan trọng nhất gây ung thư gan. Trên toàn thế giới, nhiễm HBV gây ra 80% số trường hợp ung thư biểu mô tế bào gan.

  -  bệnh xơ gan. Dạng bệnh tiến triển và không thể hồi phục này khiến hình thành mô sẹo ở gan và làm tăng khả năng bị ung thư gan.

  -  Tiếp xúc với aflatoxin. Với người sống ở châu Phi và nhiều vùng của châu Á, ăn thực phẩm nhiễm aflatoxin làm tăng nguy cơ bị ung thư gan.

  -  Uống quá nhiều rượu, tác hại của rượu có thể gây tổn thương gan không hồi phục và làm tăng nguy cơ bị ung thư gan.

  -  Hút thuốc. Hút bất cứ loại thuốc lá nào đều dễ bị ung thư gan.

  -  Tiếp xúc với vinyl chlorid, thorium dioxid (Thorotrast) và arsenic. Tiếp xúc với bất cứ chất hoá học nào trong số những chất này có thể góp phần gây ung thư gan.

Sàng lọc và chẩn đoán

  -  Nếu bị bất cứ triệu chứng nào của ung thư gan, như sút cân không rõ nguyên nhân, đau, bụng chướng hoặc vàng da, hãy đi khám bệnh càng sớm càng tốt. Bác sĩ sẽ hỏi về bệnh sử và khám thực thể. Bác sĩ cũng có thể yêu cầu làm một hoặc một vài xét nghiệm dưới đây:

  -  Siêu âm.

  -  Chụp cắt lớp vi tính (CT).

  -  Chụp cộng hưởng từ (MRI).

  -  Chụp quét gan.

  -  Sinh thiết gan.

  -  Các xét nghiệm máu.

Triệu chứng, nguyên nhân và cách phòng trị bệnh ung thư gan

Ung thư gan (K gan) chỉ sự phát triển của một khối u ác tính trong gan trên một gan bình thường hay bệnh lý. Đây là một loại ung thư tiến triển nhanh, tiên lượng rất xấu, tỷ lệ sống sót nhỏ hơn 5% (thường chỉ có 3%).

- triệu chứng ung thư gan: ít có triệu chứng rõ rệt, đôi khi chỉ đau vùng trước gan, rối loạn tiêu hóa, gầy sút, kém ăn. Ở giai đoạn cuối có thể sờ thấy khối u, bụng chướng, có dịch trong ổ bụng. Chẩn đoán chủ yếu dựa vào siêu âm, chụp cắt lớp vi tính và sinh thiết gan.

- Nguyên nhân: Có một số nguyên nhân sau:

+ Các bệnh mãn tính đều có thể là tiền đề cho sự phát triển của ung thư như: xơ gan, viêm gan mãn tính...

+ Yếu tố nhiễm trùng, nhất là sau viêm gan do virus B, C hoặc cả B và C.

+ Chất độc: rượu, độc tố của nấm mốc, chất dioxin, Benzopyrin...

+ Yếu tố nội tiết (nam bị nhiều hơn nữ, do có hocmon testoteron rất cao).

+ Nhiễm độc sắt, đồng...

- Điều trị: Có các phương pháp sau:

+ Phẫu thuật cắt gan (với những u nhỏ, khu trú, đơn độc).

+ Tiêm: dùng cho những u nhỏ hơn 5 cm, chưa có di căn.

+ Bịt tắc động mạch gan (to-xy) có tác dụng làm hoại tử khối u bằng chất gelfoam gây tắc mạch cung, chỉ áp dụng với những khối u không còn chỉ định phẫu thuật nhưng còn khu trú.

+ Các biện pháp tạm thời khác như: hóa trị, xạ trị liệu, nhiệt trị liệu, ghép gan nhưng ít kết quả trong điều trị ung thư gan.

- Các biện pháp phòng ngừa: Chích ngừa viêm gan B, C; hạn chế và tránh tác hại của rượu; tránh tiếp xúc với các chất độc hại như dioxin, nấm mốc...

March 15, 2013

Thành công điều trị ung thư gan biểu mô tế bào


Bệnh viên TƯQĐ 108 đã thành công trong điều trị ung thư gan biểu mô tế bào

"Chi phí cho một ca điều trị hoá tắc mạch bằng vi cầu khoảng 45 – 50 triệu đồng, tuy nhiên cũng kỹ thuật này ở một số nước trong khu vực như Singapore, Thái Lan…thì người bệnh sẽ phải chi phí hơn thế nhiều lần"

Hơn 30 bệnh nhân bị ung thư biểu mô tế bào gan không còn chỉ định phẫu thuật đã được các bác sĩ Bộ môn – Khoa Nội tiêu hóa (A3) Bệnh viện TWQĐ 108 can thiệp thành công kỹ thuật hóa tắc mạch với hạt vi cầu điều trị ung thư biểu mô tế bào gan (UTBMTBG). Đây là một phương pháp điều trị UTBMTBG mới được thực hiện và công bố gần đây tại các nước Âu Mỹ và lần đầu tiên đưa vào ứng dụng ở nước ta.

Ghi nhận từ ca bệnh đầu tiên

Bác Võ Văn Đ., 70 tuổi (Hà Nội) không giấu nổi vui mừng khi biết mình đã được các bác sĩ Bộ môn - Khoa nội Tiêu hóa (A3), Bệnh viện TWQĐ 108 can thiệp thành công kỹ thuật mới điều trị UTBMTBG cho mình, đây là khối u có kích thước gần 8cm sau điều trị bằng kỹ thuật hóa tắc mạch vi cầu đã nhỏ đi chỉ còn 3cm. Theo lời kể của bệnh nhân, ông có tiền sử viêm gan B mạn, được phát hiện và chẩn đoán UTBMTBG từ năm 2004. Ông đã được điều trị bằng phương pháp tiêm ethanol qua da và bệnh ổn định 7 năm nay.

Tuy vậy, trong lần kiểm tra sức khỏe định kỳ năm 2011, bác sĩ phát hiện ông có khối u gan tái phát với kích thước 8cm ở hạ phân thùy IV, tăng sinh mạch mạnh. Đối với căn bệnh UTBMTBG, để điều trị cho người bệnh đòi hỏi phải được phát hiện sớm và phương pháp phẫu thuật cắt bỏ khối u vẫn là hiệu quả nhất. Khi bệnh nhân đã có triệu chứng lâm sàng như đau vùng gan hoặc gày sút cân nhanh thì đây thường là giai đoạn bệnh tiến triển và phương pháp điều trị tạm thời cơ bản là hóa tắc mạch qua đường động mạch hay còn gọi là phương pháp hóa tắc mạch truyền thống.

Tuy nhiên, từ thực tiễn 10 năm nghiên cứu điều trị bệnh UBMTBG bằng phương pháp này, PGS.TS. Mai Hồng Bàng - Phó Giám đốc Bệnh viện, chủ nhiệm Bộ môn Nội tiêu hóa - chủ trì việc triển khai kỹ thuật hóa tắc mạch tại BV cho biết: “Phương pháp hóa tắc mạch truyền thống có những hạn chế nhất định, đó là tỷ lệ hoại tử hoàn toàn khối u thấp, tác dụng phụ và biến chứng sau điều trị khá nặng nề và để giữ vững kết quả thì phải điều trị nhắc lại nhiều lần. Vì thế, chúng tôi quyết tâm ứng dụng những kỹ thuật hóa tắc mạch mới được thực hiện và công bố gần đây tại các nước Âu Mỹ, đó là kỹ thuật hóa tắc mạch với hạt vi cầu để điều trị bệnh UTBMTG – một bệnh đang rất phổ biến tại Việt Nam”.



Ngày 3/6/2011, bệnh nhân Đ. đã được chỉ định điều trị UTBMTBG bằng phương pháp hóa tắc mạch với hạt vi cầu DC Beads (DCB). Sử dụng hạt DCB với 2 loại kích cỡ: 1ml loại hạt đường kính 100 - 300 micromet và 1ml loại hạt đường kính 500 - 700 micromet. Mỗi loại kích cỡ hạt được tải với 37,5mg doxorubicin (hóa chất chống ung thư). Thời gian tải 60 phút cho loại kích cỡ nhỏ và 90 phút cho loại kích cỡ lớn… Sau can thiệp, bệnh nhân chỉ nằm viện 5 ngày và xuất viện trong tình trạng sức khỏe tốt, ăn ngủ bình thường, không sốt, hết đau vùng gan, men gan gần như bình thường và hiện nay vẫn có thể chơi thể thao hàng ngày. Đây là bệnh nhân đầu tiên được can thiệp bằng phương pháp này và đáp ứng điều trị tốt.

Đến nay, Bộ môn – Khoa nội tiêu hóa, Bệnh viện TWQĐ 108 đã thực hiện thành công kỹ thuật hóa tắc mạch với hạt vi cầu cho hơn 30 bệnh nhân UTBMTBG và diễn biến tình trạng bệnh của đa số các bệnh nhân đều tốt. Những bệnh nhân đáp ứng tốt với phương pháp điều trị này đều có kích thước khối u đã được thu nhỏ so với trước khi điều trị.

Kỹ thuật hóa tắc mạch vi cầu không chỉ được áp dụng cho bệnh nhân bị UTBMTBG không còn chỉ định phẫu thuật và từ chối phẫu thuật mà còn được chỉ định điều trị cho bệnh nhân ung thư gan thứ phát, ung thư đường mật trong gan và các khối u tăng sinh mạch ở gan khác..
Khắc phục nhược điểm của kỹ thuật hóa tắc mạchtruyền thống


Về phương pháp điều trị mới này, TS. Nguyễn Tiến Thịnh – người trực tiếp thực hiện kỹ thuật và theo dõi điều trị cho biết: “Hóa tắc mạch với hạt vi cầu là một kỹ thuật hóa tắc mạch mới, khắc phục được những nhược điểm chính của kỹ thuật hóa tắc mạch truyền thống nhờ sử dụng tác nhân tắc mạch cũng đồng thời là chất mang và phóng thích thuốc một cách bền vững - đó là các hạt vi cầu DCB”.

Hiện nay, điều trị ung thư gan tại một số nước châu Âu và châu Á đã công nhận kỹ thuật hóa tắc mạch vi cầu là phương pháp ưu việt, hiệu quả cao và có khoảng trên 30% số bệnh nhân UTBMTBG được điều trị theo phương pháp này.

Hạt vi cầu DCB là hạt hình cầu, có tính mềm, đàn hồi được bảo quản dưới dạng dung dịch phosphat, cho phép duy trì nồng độ thuốc ổn định trong khối u, đồng thời giảm nồng độ thuốc khuếch tán ra tuần hoàn ngoại vi. Hạt DCB là một dạng hạt vi cầu được thiết kế đặc hiệu cho kỹ thuật hóa tắc mạch, có thể được chuyển tải cùng với hóa chất chống ung thư như doxorubicin. Sự gắn kết và phóng thích hóa chất được thực hiện theo cơ chế trao đổi ion: hạt DCB mang điện tích âm còn hóa chất chống ung thư mang điện tích dương nên khi trộn lẫn với nhau chúng sẽ được gắn kết chặt chẽ.

Khi đưa vào trong khối u (môi trường plasma giàu điện tích dương) thì hóa chất được phóng thích từ từ theo cơ chế cạnh tranh trao đổi ion. Chính vì thế, hóa chất trong khối u được duy trì ở nồng độ cao và kéo dài tới 14 ngày sau điều trị can thiệp. Như vậy, khi nồng độ hóa chất trong khối u càng cao và kéo dài thì khả năng diệt tế bào ung thư càng chắc chắn và mạnh mẽ. Bản thân hạt DCB với những kích cỡ khác nhau từ 100 – 900 micromet sẽ gây ra hiện tượng tắc động mạch nuôi khối u.

Các hạt DCB kích thước nhỏ gây tắc vi tuần hoàn khối u và những hạt DCB lớn hơn gây tắc tiểu động mạch và những nhánh động mạch nhỏ nuôi u gây hiện tượng thiếu máu u nặng nề, hậu quả khối u bị bỏ đói và chết. Tính ưu việt của hạt vi cầu có tác dụng làm giảm số lần điều trị nhắc lại, giảm số lần nhập viện, giảm ngày nằm điều trị, hạn chế tác dụng phụ do hóa chất chống ung thư gây ra. Người bệnh sau can thiệp bằng phương pháp này có thời gian nằm viện trung bình 1 tuần, còn thực hiện bằng phương pháp hóa tắc mạch truyền thống do tác dụng phụ của thuốc nên thời gian nằm viện sẽ phải kéo dài hơn, nguy cơ tổn thương đến các nhu mô gan lành cũng cao hơn.

Tuy nhiên, hiệu quả của phương pháp này còn phụ thuộc vào sự chỉ định phù hợp đối với từng ca bệnh cụ thể; không phải trường hợp nào cũng có thể áp dụng tốt phương pháp điều trị này. Cũng như hóa tắc mạch truyền thống, phương pháp này được chỉ định cho các trường hợp UTBMTBG không còn chỉ định phẫu thuật, khối u gan tăng sinh mạch với chức năng gan còn tương đối khá và không có các chống chỉ định đặc biệt.

Xem thêm: chua benh ung thu | thuoc tri benh gan | day bung kho tieu | tac hai cua ruou

March 12, 2013

Sự thật về cà gai leo điều trị ung thư gan

Cà gai leo có thể điều trị ung thư gan được hay không?

Vừa qua, tại Quảng Nam rộ lên tin đồn là cây cà gai leo chữa trị được ung thư gan! Nhưng sự thật không hoàn toàn như vậy. Dưới đây xin điểm qua về công dụng của cây cà gai leo cùng một số kết quả nghiên cứu để làm rõ vấn đề này.


Bộ phận dùng là rễ (thích gia căn), dây (thích gia đằng). Rễ, cành lá và cả quả, thu hái quanh năm, rửa sạch, thái nhỏ, phơi hay sấy khô. Có khi dùng tươi.


Cà gai leo còn có tên gọi khác như: cà vạnh, cà cườm, cà quánh, cà quýnh, cà gai dây, cà lù. Tên khoa học Solanum hainanense hoặc Solanum procumbens Lour., thuộc họ Cà (Solanaceae). Cây mọc hoang nhiều nơi trong nước ta như các tỉnh miền Bắc cho tới Huế; Lào, Campuchia.

Cà gai leo là cây nhỏ, sống nhiều năm, dài khoảng 1m, phân cành nhiều, cành non tỏa rộng, phủ lông hình sao và rất nhiều gai cong màu vàng. Lá mọc so le hình bầu dục hay thuôn, phiến lá nông, không đều, mặt trên xanh sẫm, mặt dưới nhạt, phủ đầy lông tơ màu trắng, hai mặt đều có gai ở gân chính, nhất là mặt trên, cuống lá cũng có gai. Hoa màu trắng mọc thành xim. Quả mọng, hình cầu nhẵn, có cuống dài, màu vàng, khi chín có màu đỏ, hạt màu vàng.

Thành phần hóa học chính như rễ có alcaloid, tinh bột, flavonoid. Dây có alcaloid.

Cây được dùng trị phong thấp, sâu răng, đau nhức các đầu gân xương, cảm cúm, ho, ho gà, dị ứng. Còn dùng trị rắn độc cắn, giải độc rượu, bia, chống say tàu xe. Hiện nay cà gai leo đã được nghiên cứu và chứng minh có tác dụng điều trị viêm gan do virút, xơ gan và hỗ trợ trị ung thư gan. Ngày dùng 16 - 20g dưới dạng thuốc sắc.

Vài công trình nghiên cứu về cà gai leo

Gần đây đã có một số công trình nghiên cứu công dụng của cây cà gai leo như đề tài cấp nhà nước:“Nghiên cứu thuốc từ cà gai leo làm thuốc chống viêm và ức chế sự phát triển của xơ gan”. Thử trên tác dụng trên lâm sàng trên 60 bệnh nhân viêm gan B mãn hoạt động kết quả điều trị ở nhóm dùng cà gai leo đạt mức rất tốt và tốt 66,7%, ngược lại ở nhóm chứng (placebo) chỉ ở mức trung bình và kém 93,3%, thuốc không gây tác dụng ngoài ý muốn. Từ những kết quả nghiên cứu vừa nêu có thể kết luận cà gai leo làm thuốc chữa viêm gan đặc biệt là viêm gan B mãn tính thể hoạt động mà vẫn còn là nỗi lo lắng của ngành Y tế của nhiều nước. Interferon được coi là thuốc quan trọng nhất để chữa bệnh này thì quá đắt và có nhiều tác dụng phụ.

Hay đề tài:“Nghiên cứu điều trị hỗ trợ bệnh nhân viêm gan virút B mãn tính thể hoạt động bằng thuốc từ cà gai leo”(lâm sàng giai đoạn 3) được thực hiện thử lâm sàng trên 90 bệnh nhân viêm gan B mãn tính thể hoạt động trong 2 tháng so sánh với 90 bệnh nhân nhóm đối chứng, tại 3 bệnh viện 103, 354 và 108, rút ra các kết luận sau:

- Thuốc có tác dụng giảm nhanh các triệu chứng lâm sàng (mệt mỏi, đau tức hạ sườn phải, nước tiểu vàng, da niêm mạc vàng,...); Transaminase và bilirubin về bình thường nhanh hơn so với nhóm chứng.

- Tại Viện 103, 7 bệnh nhân được điều trị kéo dài 6 tháng kết quả có 1 bệnh nhân mất HBsAg và xuất hiện Anti HBs.

Thuốc không gây một tác dụng ngoài ý muốn nào trên lâm sàng và xét nghiệm.

Còn đề tài:“Nghiên cứu lâm sàng tổn thương gan do tiếp xúc nghề nghiệp với TNT và tác dụng bảo vệ gan của cà gai leo trên thực nghiệm”năm 1997 đi đến kết luận: “Dịch chiết cây cà gai leo có tác dụng bảo vệ gan chuột dưới ảnh hưởng độc của TNT với các khả năng: hạn chế tăng trọng lượng gan do nhiễm độc; ngăn chặn thoái hóa mỡ và hiện tượng chảy máu vi thể trong nhu mô gan; làm giảm sự hủy hoại tế bào và tan rã nhu mô gan, do đó bảo tồn được cấu trúc nan hoa của tiểu thùy gan”.

Với đề tài:“Nghiên cứu cây cà gai leo làm thuốc chống viêm gan và ức chế xơ gan”năm 2002 đã thử tác dụng của dạng chiết toàn phần và glycoalcaloid cà gai leo trên mô hình chống viêm mạn, trên colagenase, mô hình xơ gan thực nghiệm, tác dụng chống oxy hóa. Kết quả cho thấy:

- Dạng chiết toàn phần và glycoalcaloid cà gai leo làm giảm trọng lượng u trên mô hình u hạt thực nghiệm theo thứ tự 42,2% và 35,2%.

- Cả hai chế phẩm trên đều có tác dụng trên men colagenase. Dạng chiết toàn phần làm giảm hàm lượng colagen gan trên mô hình gây xơ gan là 27,0% còn dạng glycoalcaloid là 27,6%.

- Hoạt chất chống oxy hóa (HTCO) in vivo là 47,5% .

- Kết quả trên đã chứng minh glycoalcaloid là hoạt chất chính có tác dụng ức chế sự phát triển xơ gan, chống viêm, bảo vệ gan trong cao toàn phần của cà gai leo.

- Đã nghiên cứu phát hiện những tác dụng dược lý mới của cà gai leo như tác dụng trên hệ miễn dịch, trên tế bào ung thư, cũng như thử tác dụng trên gen gây ung thư của virút và gen ức chế ung thư p53 và Rb.

- Đã xác định độc tính cấp và độc tính bán trường diễn, độc tính trường diến của cà gai leo.

Những bài thuốc dùng cà gai leo

Như vậy, qua những kết quả nghiên cứu trên đã đã chứng minh cho việc sử dụng cà gai leo để giải độc gan và chống viêm mạnh của người dân, điều này cũng cho thấy cây thuốc Nam của chúng ta có tác dụng mạnh và sẽ góp phần không nhỏ vào sự nghiệp chăm sóc và bảo vệ sức khỏe của người dân nếu được quan tâm đúng mức.

Đông y cũng cho rằng cà gai leo có vị hơi the, tính ấm, hơi có độc, có tác dụng tán phong thấp, đau lưng, nhức xương, tiêu độc, tiêu đờm, trừ ho, giảm đau, cầm máu, trị rắn cắn, viêm gan, xơ gan, gan nhiễm mỡ.


Trong nhiều kết quả nghiên cứu khoa học hiện đại, cho đến nay vẫn chưa có bất cứ một kết quả nghiên cứu khoa học chính thống chứng minh rằng cây cà gai chữa trị được bệnh ung thư gan mà chỉ có tác dụng tốt trong việc điều trị các bệnh về gan.


Dưới đây xin nêu những cách trị liệu truyền thống theo kinh nghiệm của dân gian từ cây cà gai leo

Chữa viêm gan, xơ gan, hỗ trợ chống tế bào gây ung thư: cà gai leo (thân, rễ, lá) 30g, cây dừa cạn 10g, cây chó đẻ răng cưa (diệp hạ châu) 10g. Tất cả sao vàng, sắc uống hằng ngày một thang.

Chữa tê thấp, đau lưng, nhức mỏi: cà gai leo 10g, dây gấm 10g, thổ phục linh 10g, kê huyết đằng 10g, lá lốt 10g. Sao vàng, sắc uống ngày 1 thang. Liên tục từ 10 - 30 thang.

Chữa chứng ho gà, suyễn: cà gai leo 10g, thiên môn 10g, mạch môn 10g. Sắc ngày 1 thang chia 3.

Bài thuốc dùng trị cảm cúm, bệnh dị ứng, ho gà, đau lưng, đau nhức xương, thấp khớp, rắn cắn: liều dùng 16 - 20g rễ hoặc thân lá cà gai leo sắc uống hàng ngày.

Làm giải rượu: theo kinh nghiệm dân gian, cà gai leo dùng chữa ngộ độc rượu rất tốt. 100g cà gai leo khô sắc với 400ml nước còn 150ml, uống trong ngày, nên uống khi thuốc còn ấm. Hoặc 50g cà gai leo khô hãm với nước sôi, cho người say rượu uống thay nước. Dùng đến khi tỉnh rượu. Các bài thuốc trên sẽ nhanh chóng giúp tỉnh rượu, bảo vệ tốt tế bào của gan. Theo kinh nghiệm dân gian tác dụng bảo vệ tế bào gan mạnh đến nỗi khi uống rượu chỉ cần chà răng hoặc nhấm rễ cà gai leo thì sẽ tránh được say, nếu bị say thì uống nước sắc của rễ hoặc thân lá sẽ nhanh chóng tỉnh rượu.

Chữa ho do viêm họng: rễhoặc thân và lácà gai leo 15g, lá chanh 30g, sắc uống làm 2 lần trong ngày. Uống khi thuốc còn ấm. Dùng trong 5 - 7 ngày.

Hỗ trợ điều trị các bệnh về gan (viêm gan B, xơ gan...): 35g rễ hoặc thân lá cà gai leo, sắc với 1 lít nước, còn 300ml chia uống 3 lần trong ngày, giúp hạ men gan, và giải độc gan rất tốt.

Trong nhiều kết quả nghiên cứu khoa học hiện đại, cho đến nay vẫn chưa có bất cứ một kết quả nghiên cứu khoa học chính thống chứng minh rằng cây cà gai chữa trị được bệnh ung thư gan mà thực tế chỉ có tác dụng tốt trong việc điều trị các bệnh về gan. Đối với các bệnh lý khác, việc sử dụng cây cà gai leo để chữa trị là do kinh nghiệm dân gian, chứ chưa có nghiên cứu khoa học nào khẳng định. Còn thông tin về tác dụng chữa ung thư của cây cà gai leo có thể xuất phát từ một hội nhóm, hoặc kết quả nghiên cứu của một tổ chức y tế không chính thống nào đó. Tuy nhiên, những thông tin này cũng cần được nghiên cứu, thẩm định và được công bố của các cơ quan chức năng có thẩm quyền. Mọi người dân cần thận trọng, đừng nghe theo tin của một số người đồn thổi là cà gai leo chữa được ung thư như ở Quảng Nam.

Nguồn: Internet

March 8, 2013

Một số phương pháp điều trị ung thư gan

Một số phương pháp điều trị ung thư gan:

1. Diệt tại chỗ. 

Phương pháp điều trị này áp dụng cho các khối u có đường kính dưới 5cm. Hai phương pháp hay được thực hiện nhất là tiêm cồn tuyệt đối và axit acetic qua da vào khối u. Cồn và axit sẽ phá hủy các tế bào ung thư. Nhóm kỹ thuật này thường được tiến hành tại khoa chẩn đoán hình ảnh, sử dụng siêu âm dẫn đường cho kim đi trực tiếp vào khối u. Trong trường hợp khối u tái phát có thể tiếp tục điều trị như vậy nhiều lần.

2. Diệt bằng tia laser hoặc đốt nhiệt sóng cao tần.

Phương pháp điều trị này sử dụng tia laser hoặc máy sinh dòng điện để phá hủy các tế bào ung thư. Một chiếc kim được cắm qua da vào trung tâm khối u (bệnh nhân được gây tê tại chỗ). Ánh sáng tia laser hoặc sóng cao tần được truyền qua kim vào khối u, làm nóng tế bào ung thư và tiêu diệt chúng.

3. Hóa trị liệu pháp

Là phương pháp điều trị sử dụng các thuốc chống ung thư để diệt tế bào khối u, được áp dụng cho các trường hợp không còn khả năng phẫu thuật cắt u.

4. Thuốc chống ung thư:
Thường được tiêm tĩnh mạch hoặc bơm trực tiếp vào động mạch gan nuôi khối u.

5. Tắc mạch hóa dầu: 
Phương pháp điều trị này sử dụng hỗn hợp hóa chất chống ung thư trộn đều với một chất dầu gọi là lipiodol. Kỹ thuật điều trị thực hiện dưới dạng gây tê tại chỗ, hỗn hợp hóa chất tắc mạch được bơm vào gan bằng ống thông qua động mạch gan (mạch máu chính nuôi u gan). Người ta thấy rằng cho thêm lipiodol vào hóa chất sẽ làm hoá chất được giữ lại trong khối u lâu hơn, làm tăng hiệu quả điều trị. Kỹ thuật điều trị này được thực hiện tại phòng X-quang, cần nằm lưu tại bệnh viện 24-48 giờ và có thể làm lại một số lần.

6. Còn tác dụng chữa ung thư của mật gấu? 
Theo đông y, mật gấu vị đắng, tính hàn, vào 3 kinh tâm, can và vị có tác dụng thanh nhiệt, giải độc, sát trùng, ác thương, chữa đau răng, viêm mắt, hoàng đản, lỵ, hồi hộp, chân tay co quắp, đau dạ dày, giúp tiêu hóa, làm tan sỏi mật, mau hồi phục nếu gãy xương.

Đặc biệt mật gấu ngựa có tác dụng chữa bệnh xơ gan, do có chứa axit ursodeoxycholic (UDC) chiếm 20% trọng lượng của mật. Đây là điểm khác với gấu chó, chúng chỉ có axit chenodeoxychgolic (CDC) mà thôi.

Theo các kết quả nghiên cứu gần đây, mật gấu ngựa còn có tác dụng góp phần điều trị ung thư do nó làm cho các thuốc chữa ung thư đi vào tiêu diệt tế bào ung thư dễ dàng hơn. Như vậy nếu bạn uống mật gấu cùng với các biện pháp của y học hiện đại thì cũng có tác dụng hỗ trợ. Chưa có tài liệu nào cho thấy mật gấu là thuốc chữa ung thư.

Thông thường nếu con gấu ngựa khỏe mạnh, không bệnh tật, sau khi lấy mật có thể pha vào nước sôi, rượu hay mật ong uống trực tiếp rất tốt. Một lít mật ong pha 10ml mật gấu ngựa (lấy 6 tháng một lần mới hiệu quả), mỗi ngày uống 3 lần, mỗi lần 10ml.

7. Linh chi
Nếu uống để chống lão hóa, phòng ung thư thì tốt chứ khi đã bị ung thư thì linh chi cũng không thể là thần dược được.

Bác sĩ đề nghị nhập viện thì bạn nên tuân thủ bởi hiện nay những phần gan xơ đã làm nghẹt hệ tuần hoàn gan – lách và làm lách to ra. Tùy tình trạng mà bác sĩ sẽ lựa chọn phương pháp. Ung thư càng để lâu càng có hại.

January 16, 2013

Bài thuốc dân gian chữa bệnh gan hiệu quả


Cây nhân trần là một loại thuốc dân gian chữa bệnh gan rất hiệu quả

Nhân trần là vị thuốc dân gian chữa bệnh gan hiệu quả, lại rẻ tiền, dễ kiếm và không gây độc. Nó cũng được dùng chữa viêm da, tăng bài tiết mật... 

Cây nhân trần chữa bệnh gan hiệu quả           

Với các triệu chứng bệnh gan khác nhau ta có thể kết hợp nhân trần với các vị thuốc dân gian khác và sử dụng với liều lượng khác nhau:
  -  Nhân trần 30 gr thái vụn, hãm với nước sôi trong bình kín, sau 15 phút có thể dùng được, pha thêm một chút đường phèn uống thay trà trong ngày, dùng phòng bệnh do thấp nhiệt gây ra, điều trị viêm gan cấp và mãn tính.     
  -  Nhân trần 300 gr, sinh địa hoàng 60 gr, trà 30 gr. Ba vị tán vụn, mỗi ngày lấy 30 gr hãm với nước sôi trong bình kín, sau 10 - 15 phút có thể dùng được, uống thay trà trong ngày. Dùng để chữa viêm gan vàng da cấp tính.    
  -  Mạch nha 500 gr, nhân trần 150 gr, quất bi 250 gr. Tất cả sấy khô, tán vụn, mỗi ngày dùng 60 gr hãm với nước sôi trong bình sau 20 phút thì dùng được, uống thay trà trong ngày. Dùng trị viêm gan giai đoạn di chứng có rối loạn tiêu hoá, chán ăn, đầy bụng chậm tiêu.    
  -  Râu ngô 300 gr, nhân trần 150 gr, bồ công anh 150 gr. Tất cả tán vụn, mỗi ngày dùng 50 gr hãm với nước sôi trong bình kín, sau 20 phút thì dùng được, uống thay trà trong ngày. Dùng để phòng chống viêm gan, viêm túi mật, sỏi mật.

Chú ý: Không dùng nhân trần cùng cam thảo vì cam thảo có tính chất giữ nước, trong khi nhân trần lại giúp đào thải. Cũng không nên uống nước nhân trần quá nhiều, đặc và có thể thay thế cam thảo bằng cỏ ngọt.


Triệu chứng của bệnh gan


Triệu chứng bệnh gan được biểu hiện thế nào?
Bệnh gan thật sự rất nguy hiểm và bạn nên theo dõi cơ thể bạn để phát hiện ra những dấu hiệu nhỏ nhất, dễ dàng được thấy từ bên ngoài những triệu chứng bệnh gan sau:

Triệu chứng của bệnh gan
Triệu chứng của bệnh gan

  -  Da có dấu hiệu đổi màu. Màu mắt và nước tiểu đều có màu vàng đục, đậm. Việc này gọi là hiện tượng vàng da và nó được coi như dầu hiệu đầu tiên của bệnh gan.
  -  Nếu bạn thường xuyên bị chảy máu mũi và cơ thể dễ bầm tím, bạn có thể thiếu protein hoặc tệ hơn là bệnh gan
  -  Màu của phân thay đổi cũng là dấu hiệu của rối loạn chức năng gan. Người mắc bệnh gan cũng thường xuyên cảm thấy quặn ruột và đi tiêu đột xuất.
  -  Có những dấu hiệu lạ ở vùng bụng. Ví dụ như sưng dưới xương sườn bên phải là dấu hiệu chung của bệnh nhân gan. Nó có thể gây áp lực nặng nề lên cơ hoành và khiến bạn đau khi thở.
  -  Chế độ ăn uống thay đổi. Người bị gan sẽ cảm thấy kém ăn dẫn tới giảm cân, rối loạn chức năng gan, thiếu máu và hay có cảm giác buồn nôn.
  -  Màu sắc và hình dạng móng tay cũng có thể chỉ ra bạn có mắc bệnh gan hay không. Nếu móng tay cong, màu trắng có nghĩa là bạn có nguy cơ mắc bệnh gan.
  -  Chứng khát nước thường xuyên và thường xuyên đi tiểu cũng xuất hiện ở người bị gan
  -  Người bị gan thường cảm thấy đau đầu, chóng mặt, co thắt, trầm cảm dễ cáu gắt.

Nếu xuất hiện các triệu chứng trên việc đầu tiền các bạn có thể làm là sử dụng cây nhân trần để đun lấy nước uống với tác dụng mát gan, và giải độc gan. Đó cũng là một bài thuốc dân gian chữa bệnh gan rất hiệu quả. Những dấu hiệu trên là những dấu hiệu rất dễ nhận biết bên ngoài và bằng mắt thường. Hãy thường xuyên theo dõi cơ thể mình và những người xung quanh. Nếu bạn gặp những triệu chứng trên, hãy đi khám để bác sĩ kiểm tra chắc chắn cho bạn.


January 15, 2013

Thuốc điều trị ung thư gan tốt nhất


Đâu là thuốc điều trị ung thư gan tốt nhất?

Lần đầu tiên các bác sĩ nói họ đã tìm ra loại thuốc điều trị ung thư gan tốt nhất, dạng viên kéo dài thời gian sống cho bệnh nhân ung thư gan, một căn bệnh nổi tiếng khó điều trị và có tới hơn 500.000 người mắc mỗi năm.

Sorafenib - Loại thuốc điều trị ung thư gan tốt nhất    

Các kết quả thí nghiệm trong một nghiên cứu đa quốc gia với 602 bệnh nhân bị bệnh ung thư gan di căn thật ấn tượng và sẽ thay đổi cách điều trị bệnh, các chuyên gia ung thư, tác giả của nghiên cứu cho biết.   

Mặc dù, trung bình thời gian sống thêm của bệnh nhân dùng sorafenib là 10,7 tháng so với gần tám tháng của những người dùng giả dược, nhưng tới nay, một số bệnh nhân dùng sorafenib vẫn còn sống.

Lợi thế này chưa bao giờ xảy ra ở ung thư gan và đây là một bước đột phá lớn trong phương pháp điều trị bệnh – Tiến sĩ Josep Llovet, trưởng nhóm nghiên cứu nói.

“Mặc dù thời gian sống thêm không nhiều nhưng với ung thư gan, đây là một thành công khá ấn tượng” – Tiến sĩ Nancy Davidson thuộc Trường Y tế Công cộng Bloomberg nói. “Đây là phương pháp điều trị hữu hiệu đầu tiên với ung thư gan”.

Thuốc sorafenib nhắm vào các tế bào ác tính và giảm lượng máu tới nuôi dưỡng khối u. Khối u của nhiều bệnh nhân không co lại hoặc biến mất nhưng chúng cũng không phát triển.

“Thuốc sẽ không chữa khỏi bệnh nhưng nó trì hoãn quá trình tiến triển của bệnh một cách đáng kể” – ông Llovet thuộc Trường Y tế Mount Sinai ở New York và Bệnh viện Barcelona, Tây Ban Nha, cho biết.

Thuốc sorafenib, có tên thương mại là Nexavar, được Mỹ và hàng chục nước khác cấp phép để điều trị ung thư thận di căn. Nó được sản xuất bởi Bayer Pharmaceuticals Corp. và Onyx Pharmaceuticals Inc.

Các nhà nghiên cứu hi vọng Mỹ và các nước khác sẽ đồng ý để loại thuốc này được phép điều trị bệnh ung thư gan di căn.

Hàng năm, khoảng 500.000 người trên toàn thế giới bị mắc ung thư gan. Các yếu tố dẫn tới bệnh này gồm một số dạng viêm gan. Bệnh phổ biến ở Trung Quốc và các nước không sử dụng phổ biến vaccine viêm gan B.

Bệnh ung thư gan không phản ứng tốt với hoá trị liệu truyền thống và thường được chẩn đoán muộn. Rất nhiều bệnh nhân qua đời trong vòng một năm sau chẩn đoán.


January 14, 2013

Lưu ý một số triệu chứng của bệnh ung thư gan


Biểu hiện của triệu chứng bệnh ung thư gan

Nếu bạn bị sút một vài kg mỗi tháng, hay bị rối loạn tiêu hóa nhẹ thì đó có thể là những biểu hiện của triệu chứng bệnh ung thư gan.  

Ung thư gan gồm hai loại, nguyên phát (ung thư phát sinh từ gan, chiếm khoảng 90% trường hợp) và thứ phát (di căn từ nơi khác tới). Có tới 90%  các trường hợp ung thư gan nguyên phát là ung thư biểu mô tế bào gan. Đây là bệnh khá phổ biến, tỷ lệ tử vong trong 3 - 6 tháng là 100% nếu không được điều trị.   

triệu chứng ung thư gan    

Giai đoạn khởi phát thường ít triệu chứng điển hình nên bệnh dễ bị bỏ sót, nhưng cũng có những dấu hiệu có thể lưu ý:
  - Rối loạn tiêu hóa nhẹ: Ăn kém, không có cảm giác ngon miệng, sau ăn đầy bụng khó tiêu, đại tiện thay đổi.
  - Tức nặng và đôi lúc thấy đau hạ sườn phải nhưng không đáng kể.
  - Gầy sút 1 - 2 kg mỗi tháng, mệt mỏi vô cớ, đôi khi sốt nhẹ và tự hết.
  - Tình cờ sờ thấy khối u vùng hạ sườn phải hoặc khám sức khỏe định kỳ phát hiện qua siêu âm.  

Trong giai đoạn toàn phát, bệnh nhân thường có các biểu hiện như:
  - Rối loạn tiêu hóa: Ăn nhanh no, sau ăn tức bụng, cảm giác đầy hơi, lợm giọng, buồn nôn và nôn. Bụng chướng căng dần, đại tiện thay đổi, đi nhiều lần trong ngày, phân nát, có lẫn nhiều nhầy.
  - Mệt mỏi tăng, không lao động được, gầy sút nhanh 5 - 6 kg mỗi tháng.
  - Có thể sốt nhẹ hoặc cao, sốt kéo dài vài ngày, cũng có khi hàng tháng.
  - Đau tức vùng gan liên tục, có những cơn đau quặn gan, các thuốc giảm đau thông thường ít hoặc kém tác dụng. Khi gan to, bản thân bệnh nhân có thể tự sờ thấy những u cục cứng trên bề mặt.
  - Có thể có tuần hoàn bàng hệ và dịch cổ chướng, phù chi dưới hay gặp ở giai đoạn cuối. Da có màu vàng rơm hoặc xanh bẩn.
  - Cơ thể suy kiệt nhanh, lông tóc rụng, xuất hiện sao mạch trên những vùng da mỏng như ngực, bàn tay son.
  - Xuất huyết tiêu hóa do xơ gan.  

Khi phát hiện ra một trong số các triệu chứng trên, Phòng Khám 12 Kim Mã khuyên bạn nên đi khám ngay tại các cơ sở y tế để phát hiện sớm và có phương pháp điều trị bệnh ung thư gan phù hợp, mới có thể kéo dài sự sống cho bệnh nhân ung thư gan.


8 nguyên nhân chính dẫn đến bệnh ung thư gan


Các nguyên nhân gây bệnh ung thư gan bao gồm:

1. Do viêm gan B lây nhiễm
Viêm gan B có thể có nguồn gốc từ các sản phẩm máu bị ô nhiễm hoặc kim được sử dụng hoặc tiếp xúc tình dục. Vai trò của nhiễm viêm gan B (HBV) virus gây ra ung thư gan cũng được thành lập. Như đã nói trước đó, tỷ lệ ung thư gan liên quan nhiễm virus viêm gan B mãn tính có nguy cơ cao.
 Ngoài ra, bệnh nhân có virus viêm gan B có nguy cơ lớn nhất cho ung thư gan là nam giới với xơ gan vi rút viêm gan B (sẹo gan) và tiền sử gia đình ung thư gan. 
Viêm gan B mãn tính gây ung thư gan như thế nào? Ở những bệnh nhân bị nhiễm hai virus viêm gan B mãn tính và ung thư gan, cơ cấu di truyền của virus viêm gan B thường được tìm thấy là một phần của cơ cấu di truyền của các tế bào ung thư. Người ta cho rằng khu vực cụ thể của bộ gen virus viêm gan B (mã di truyền) vào những cấu tạo di truyền của tế bào gan. Cơ cấu di truyền vi rút viêm gan B này sau đó có thể phá vỡ các cơ cấu bình thường trong tế bào gan, do đó gây ra các tế bào gan để trở thành ung thư.
2. Do viêm gan C lây nhiễm
Virus viêm gan C (HCV) là khó khăn hơn để phát triển thành ung thư gan hơn so với viêm gan B. Nó thường đòi hỏi phải tiếp xúc trực tiếp với máu bị nhiễm, hoặc từ các sản phẩm máu hoặc kim tiêm bị ô nhiễm. HCV cũng được kết hợp với sự phát triển của ung thư gan. Trong thực tế, ở Nhật Bản, viêm gan siêu vi C là hiện diện trong 75% trường hợp ung thư gan. Virus viêm gan B, phần lớn các bệnh nhân viêm gan siêu vi C với ung thư gan có liên quan đến xơ gan (sẹo gan). Trong một số nghiên cứu tương lai của lịch sử tự nhiên của viêm gan C, thời gian trung bình để phát triển ung thư gan sau khi tiếp xúc với virus viêm gan C là khoảng 28 năm. Ung thư gan xảy ra khoảng tám đến 10 năm sau khi sự phát triển của xơ gan ở những bệnh nhân với viêm gan C. Một số báo cáo nghiên cứu tiềm năng châu Âu có tỷ lệ hàng năm (xảy ra theo thời gian) của ung thư gan ở bệnh nhân xơ gan viêm gan siêu vi C trong khoảng từ 1,4% -2,5 % mỗi năm.
Ở bệnh nhân viêm gan siêu vi C, các yếu tố nguy cơ phát triển ung thư gan bao gồm sự hiện diện của xơ gan, tuổi cao phần lớn ở nam giới, phát triển lên mức một khối u máu, sử dụng rượu, và đồng nhiễm với virus viêm gan B. Một số nghiên cứu trước đó cho rằng kiểu gen vi rút viêm gan C 1b có thể là một yếu tố nguy cơ, nhưng nghiên cứu gần đây không hỗ trợ phát hiện này.
Cách thức mà virus viêm gan C gây ra ung thư gan chưa được hiểu rõ.Không giống như virus viêm gan B, cách thức di truyền của virus viêm gan C không được đưa trực tiếp vào vật liệu di truyền của tế bào gan. Nó được biết đến xơ gan do mọi nguyên nhân là một yếu tố nguy cơ cho sự phát triển của ung thư gan. Vì vậy, nó đã được lập luận rằng virus viêm gan C, gây ra xơ gan , là một nguyên nhân gián tiếp của ung thư gan.
Mặt khác, có một số bệnh viêm gan C bị nhiễm virus cá nhân có ung thư gan mà không có xơ gan. Vì vậy, nó đã được cho rằng protein lõi của virus viêm gan C là thủ phạm trong sự phát triển của ung thư gan.Các protein lõi (một phần của siêu vi viêm gan C) được cho là cản trở quá trình tự nhiên của tế bào chết hoặc can thiệp với các chức năng của một gen ức chế khối u bình thường. Kết quả của những hành động này là các tế bào gan đi vào cuộc sống và tái tạo mà không có những hạn chế bình thường gây ung thư gan.
3. Do uống nhiều rượu
Xơ gan gây ra bởi tiêu thụ rượu mãn tính là một hiệp hội phổ biến nhất của ung thư gan ở các nước phát triển. Trong thực tế, khám nghiệm tử thi, có đến nửa của người nghiện rượu trước đây vốn bị nghi ngờ có ung thư sẽ có bằng chứng sớm của ung thư tiềm ẩn bên trong gan. Nhiều người trong số những người này cũng bị nhiễm virus viêm gan C mãn tính.Ví dụ thông thường là một cá nhân xơ gan do rượu đã không còn uống rượu trong 10 năm và sau đó phát triển ung thư gan. Nó là hơi khác thường đối với một người nghiện rượu tích cực uống để phát triển ung thư gan.Điều gì xảy ra là khi uống rượu và dừng lại, các tế bào gan cố gắng để chữa lành bằng cách tái sinh (tái tạo). Đó là trong quá trình tái tạo hoạt động này, ung thư sản xuất thay đổi di truyền (đột biến) có thể xảy ra, điều này giải thích sự xuất hiện của ung thư gan sau khi uống rượu đã được dừng lại.
Quan trọng hơn, nếu một người nghiện rượu không ngừng uống rượu, họ không sống đủ lâu để phát triển ung thư. Nghiện rượu những người đang tích cực uống có nhiều khả năng chết vì biến chứng ung thư liên quan đến bệnh gan do rượu (ví dụ như suy gan,). Thật vậy, bệnh nhân xơ gan do rượu, những người chết vì ung thư gan là khoảng 10 năm so với bệnh nhân chết vì các nguyên nhân không ung thư. Cuối cùng, như đã nói ở trên, rượu làm tăng nguy cơ phát triển ung thư gan ở bệnh nhân viêm gan C lây nhiễm virus hoặc vi rút viêm gan B.
4. Ăn thực phẩm có chứa Aflatoxin B1 

Aflatoxin B1 là các hóa chất tạo ung thư gan mạnh nhất được biết đến. Nó là một sản phẩm gọi là Aspergillus flavus , được tìm thấy trong thực phẩm đã được lưu trữ trong một môi trường nóng và ẩm. Nấm mốc này được tìm thấy trong thực phẩm như gạo, lạc, đậu tương, ngô và lúa mì. Nó được cho là gây ra ung thư bằng cách thay đổi sản xuất (đột biến) ở gen p53. Những đột biến này hoạt động bằng cách can thiệp quan trọng của gen ức chế khối u (ức chế) chức năng.
5. Thuốc, thuốc men và hóa chất
Một số hóa chất có liên quan với các loại ung thư được tìm thấy trong gan. Ví dụ: thorotrast - một tác nhân tương phản trước đây được sử dụng cho các nghiên cứu chẩn đoán hình ảnh, gây ra một bệnh ung thư của các mạch máu trong gan gọi là angiosarcoma gan. Ngoài ra, vinyl chloride - một hợp chất được sử dụng trong công nghiệp nhựa, có thể gây ra angiosarcomas gan xuất hiện nhiều năm sau khi tiếp xúc.
6. Hemochromatosis
Ung thư gan sẽ phát triển lên đến 30% bệnh nhân với di truyền hemochromatosis (một rối loạn trong đó có quá nhiều sắt được lưu trữ trong cơ thể, bao gồm trong gan). Bệnh nhân có nguy cơ cao nhất là những người bị xơ gan với hemochromatosis. Thật không may, khi xơ gan tạo ra thì hiệu quả loại bỏ các dư thừa sắt (điều trị cho hemochromatosis) sẽ không làm giảm nguy cơ phát triển ung thư gan.
7. Bệnh tiểu đường và béo phì
Trong thập kỷ qua, tỷ lệ mắc ung thư gan trên thế giới đã tăng đáng kể, song song với sự gia tăng bệnh béo phì. Mặc dù rất khó để tách ảnh hưởng của bệnh tiểu đường từ bệnh béo phì trên gan, cả hai điều kiện có thể gây ra tổn thương mãn tính và tích tụ mỡ trong gan .. Đây là một căn bệnh gọi là NASH. Bệnh gan nhiễm mỡ như thế này gây thiệt hại cho các tế bào gan cá nhân và có thể dẫn đến xơ gan ở một số người, do đó tăng nguy cơ ung thư gan.
8. Xơ gan
Hầu hết các loại bệnh xơ gan có tăng nguy cơ phát triển ung thư gan. Ngoài các điều kiện mô tả ở trên (viêm gan B, viêm gan C, rượu, và hemochromatosis), thiếu hụt alpha 1-trypsin , một tình trạng di truyền có thể gây ra bệnh khí thũng và xơ gan, có thể dẫn đến ung thư gan. Ung thư gan cũng liên quan chặt chẽ với tyrosinemia di truyền, bất thường ở trẻ em sinh hóa dẫn đến xơ gan sớm.
Một số nguyên nhân gây xơ gan ít liên quan với ung thư gan hơn là các nguyên nhân khác. Ví dụ, ung thư gan hiếm khi được nhìn thấy với xơ gan ở bệnh Wilson (đồng trao đổi chất bất thường) hoặc xơ viêm đường mật mãn tính sẹo và thu hẹp của ống mật. Nó được sử dụng để được nghĩ rằng ung thư gan hiếm khi được tìm thấy trong xơ gan mật chính (PBC). Tuy nhiên, các nghiên cứu gần đây cho thấy rằng tần suất của bệnh ung thư gan trong PBC so với các hình thức khác của xơ gan.