June 26, 2013

Điều trị viêm gan mùa nắng nóng

Vào tiết trời nóng nực, bệnh nhân viêm gan B cần phải có một chế độ ăn uống, sinh hoạt và điều trị viêm gan phù hợp, tránh để bệnh tình biến chuyển nặng hơn trong thời tiết mùa hè oi bức.

Chế độ ăn uống của bệnh nhân viêm gan

Bệnh nhân viêm gan nên tuân thủ nguyên tắc ăn uống thanh đạm, ăn ít nhưng ăn thành nhiều bữa, tránh gây áp lực cho gan. Đồng thời, bệnh nhân nên duy trì nhiệt độ vừa phải, không nên để cơ thể quá nóng, mỗi ngày cần ăn đầy đủ lượng protein, đồng thời ăn đầy đủ chất dinh dưỡng, tránh xa thức ăn nhiều dầu mỡ, cay nóng, bổ sung vitamin B và C, nên ăn nhiều hoa quả tươi, rau xanh, đặc biệt phải kiêng hoàn toàn rượu bia và thuốc lá.

Người bệnh cũng nên chú ý bổ sung nhiều protein và methionine có trong các thực phẩm hàng ngày như sò, mực, cá, thịt nạc, đậu phụ và các chế phẩm làm từ đậu tương… Bên cạnh đó, cần chú ý bổ sung đa dạng các loại rau quả có chất chống oxy hóa, hỗ trợ giải độc cơ thể như cà chua, cà rốt, bắp cải, dưa chuột; bổ sung thêm các loại hoa quả như táo, đào, dâu tây, chuối…cung cấp vitamin và lượng đường có tác dụng rất tốt cho gan.

Ngoài ra, bệnh nhân cần uống nhiều nước, có thể uống thêm trà xanh để thúc đẩy tuyến tiêu hóa, dịch tụy, có lợi cho tiêu hóa, giảm lượng độc tố đi qua gan.

Bệnh nhân cần chú ý kết hợp thực đơn ăn uống với một chế độ vận động nhẹ nhàng, học cách kiềm chế sự tức bực vì tiết trời quá nóng để tránh làm tổn hại đến gan.

Điều trị bệnh viêm gan

Bệnh nhân viêm gan B chỉ chú ý tới phương diện ăn uống không là chưa đủ, bởi ăn uống chỉ có tác dụng nâng cao sức đề kháng của bản thân, có tác dụng nhất định đối với việc bảo vệ gan, nhưng không có hiệu quả trong việc kháng virus viêm gan. Vì thế bệnh nhân nên đến bệnh viện hoặc các phòng khám chuyên gan để có những phương pháp điều trị cụ thể thích hợp.

Hiện nay, Công nghệ Ozone hay còn gọi là liệu pháp ozone (O3) là phương pháp điều trị bệnh gan tiên tiến nhất trên thế giới, là phương pháp dùng dòng điện xung tần số thấp để tạo ra ôxi, kích hoạt các tế bào trong máu, đồng thời thông qua lưu chuyển của dòng máu từ đó kích hoạt hàng loạt các đáp ứng miễn dịch của cơ thể, tăng cường chức năng của tế bào T sát thương (CD4+, CD8+), và các nguyên tố kháng virus khác để tiêu diệt và loại bỏ virus viêm gan.

Phương pháp trị liệu này được biết đến là “an toàn trong điều trị viêm gan B, hiệu quả trong điều trị kháng virus”. Công nghệ này không những mang lại hiệu quả vô cùng to lớn mà chi phí điều trị lại không cao.

Bảo vệ gan do tác hại của rượu gây ra

Theo khảo sát năm 2011 của Hội Gan Mật Việt Nam, trên 30% số người uống rượu bia thường xuyên bị gan nhiễm mỡ, có nguy cơ mắc viêm gan nặng và tử vong.

Thực tế, số lượng bệnh nhân nhập viện vì bệnh gan do rượu đang có xu hướng gia tăng.



Rượu gây độc trực tiếp cho gan, khi uống vào được chuyển hóa ngay tại gan thành những hạt mỡ choán chỗ tế bào gan bình thường gây nên gan nhiễm mỡ. Quá trình tích lũy mỡ trong gan là do rượu làm giảm quá trình oxy hóa acid béo ở gan, tăng vận chuyển & este hóa acid béo tạo thành trigliceride, ngoài ra rượu còn làm giảm tổng hợp và bài tiết lipoprotein ở gan.

Viêm gan do rượu là tình trạng bệnh lý tổn thương lan tỏa ở gan do rượu gây nên biểu hiện bởi tình trạng thâm nhiễm tế bào viêm ở gan và hoại tử tế bào gan, lâu dài sẽ dẫn đến benh xo gan.

Theo thống kê, số bệnh nhân bị xơ gan do bia rượu tăng nhanh và đứng thứ 2 trong các bệnh lý về gan.

Ung thư gan là một loại ung thư phát triển từ các tế bào gan. Nhiều nghiên cứu chỉ ra mối liên quan lớn giữa ung thư gan và xơ gan.

Không thể tránh nhưng có thể phòng!

Có một chế độ ăn uống, sinh hoạt khoa học hợp lý: Hạn chế tối đa lượng rượu bia vào cơ thể, cân đối các thành phần dinh dưỡng, hạn chế ăn nhiều chất béo, tập luyện thể thao điều độ.

Thường xuyên theo dõi sức khỏe định kỳ để phát hiện sớm bệnh. Ngoài ra nên dùng các sản phẩm hỗ trợ để tăng cường chức năng gan, bảo vệ gan.

Theo y học cổ truyền, nhiều loại thảo dược có tác dụng bảo vệ gan, chữa các bệnh về gan như: Cardus marianus, Diệp hạ châu, bồ công anh, nhọ nồi... Các tác dụng này đã được chứng minh bằng nhiều nghiên cứu hiện đại.

Cụ thể, Silymarin có trong cây Kế sữa (Cardus marianus) có tác dụng ổn định màng tế bào, ngăn cản quá trình xâm nhập của chất độc vào bên trong tế bào gan; ức chế sự biến đổi gan thành các tổ chức xơ, giảm sự hình thành và lắng đọng của các sợi collagen dẫn đến xơ gan; bảo vệ tế bào gan, tăng cường chức năng gan và kích thích phục hồi các tế bào gan đã bị hủy hoại; chống peroxyd hóa lipid, chống viêm.

Diệp hạ châu (hay còn gọi là chó đẻ răng cưa) có tác dụng lợi tiểu, tiêu độc, thanh can, lương huyết, hạ nhiệt, có chứa các hoạt chất phyllanthin, hypophyllanthin, triacontanal có tác dụng ức chế men DNA polymerase của virus viêm gan B.

Bồ công anh có tác dụng giải độc, thanh nhiệt, lương huyết tán kết, ức chế các men oxy hoá khử peroxidase, catalase, ức chế sự nhân lên của virus HBV gây viêm gan B do đó có tác dụng bảo vệ gan.

Nhọ nồi có tác dụng lương huyết, chỉ huyết, bổ can, thận.

Còn nhiều loại thảo dược khác theo dân gian có tác dụng bổ gan, tuy nhiên không phải cứ nghe nói “bổ gan” là chúng ta có thể sử dụng tuỳ ý, vì nhiều khi dùng không đúng cách có thể lợi bất cập hại.

Ngày nay, một số hãng dược đã kết hợp các đặc tính quý báu của các loại thảo dược Cardus marianus, diệp hạ châu, bồ công anh, nhọ nồi tạo nên hiệu quả cao trong việc thanh nhiệt, giải độc, tăng cường chức năng gan, làm mát gan, bảo vệ tế bào gan, hỗ trợ điều trị trong các trường hợp viêm gan, xơ gan, gan nhiễm mỡ và tạo thuận tiện cho người sử dụng.

June 25, 2013

Tế bào CIK điều trị viêm gan

Trong một thời gian dài, viêm gan B tái phát và trị không khỏi luôn là vấn đề nan giải đối với nước ta. Gần đây, ở Việt Nam đã có ứng dụng tế bào CIK vào điều trị viêm gan và đã thu được những đột phá to lớn, kĩ thuật mới này đã loại bỏ được mô hình và khái niệm điều trị viêm gan B bằng thuốc kháng virus, có thể điều trị triệt để bệnh bằng chính tế bào của bản thân.




Kĩ thuật tế bào CIK dieu tri viem gan B như thế nào?

Kĩ thuật tế bào CIK là kĩ thuật tận dụng tế bào đơn của bệnh nhân nuôi cây trong phòng thí nghiệm trở thành tế bào tua (tế bào DC), khi đó sẽ thêm thông tin kháng nguyên của virus, và số lượng lúc này cũng được nhân lên gấp hàng nghìn lần, khả năng bắn phá tiêu diệt virus cũng được gia tăng, tấn công trực tiếp và chủ động lên virus viêm gan B trong máy và trong tế bào gan. Kĩ thuật này đã đột phá được những khó khăn mà sự nhờn miễn dịch gây ra.

Kĩ thuật tế bào CIK không có tác dụng phụ

Do tế bào truyền ngược trong điều trị là tế bào tự thân của bệnh nhân cho nên sẽ không sản sinh ra phản ứng bài trừ, cũng không làm tổn thương đến tế bào khỏe mạnh khác, men gan không tăng cao.

Tế bào CIK điều trị viêm gan B không bị tái phát

Tế bào hiệu ứng T có tính sát thương mạnh lại có tác dụng miễn dịch tốt, có thể điều tiết tế bào miễn dịch khác đặc biệt là chức năng của tế bào B.

Tế bào T ghi nhớ mãi mãi không ngừng tuần hoàn trong máu, khi gặp lại kháng nguyên đã từng tiếp xúc qua sau vài năm vẫn có thể nhận biết ra, lần thứ 2 tiếp xúc với kháng nguyên có thể kích hoạt phản ứng tiếp phát, phản ứng này so với phản ứng lần đầu càng quyết liệt hơn để dẫn đến tăng mạnh lượng tế bào, nhanh chóng nhân bản hàng nghìn lần tế bào T hiệu ứng.

Do vậy sau khi bệnh nhân tiếp nhận điều trị tế bào thời kì điều trị cơ bản, và thời kì điều trị cùng cố, trong người tế bào T hiệu ứng miễn dịch sẽ tiếp tục phát huy tác dụng, sát thương tế bào viêm gan cũng chính là giải quyết được vấn đề tái phát trị không khỏi.

Hiệu quả điều trị của tế bào CIK – Điều trị bằng thuốc không thể so sánh

Hiện nay trên thế giới vẫn chưa điều chế ra được loại thuộc nào đặc trị tiêu diệt triệt để được virus viêm gan B. Tương tự như vậy, thuốc tiêm interferon cũng không đem lại nhiều hiệu quả nhưng tác dụng phụ lại vô cùng nghiêm trọng mà thuốc đông y lại quá đơn giản để điều trị khỏi viêm gan B.

Điều đáng mừng là, điều trị viêm gan B bằng tế bào CIK có thể ngăn cản tiến trình gan xơ hóa, cắt đứt con đường nối tiếp từ viêm gan B – gan xơ hóa – xơ gan – ung thư gan, loại trừ sự nguy hiểm mà viêm gan B gây ra, mang lại niềm vui, hạnh phúc và sức khỏe đích thực cho bệnh nhân.

Nên chọn phương pháp miễn dịch để chữa bệnh ung thư

Theo chuyên gia Ung bướu Bệnh viện Ung bướu Hiện đại Quảng Châu - Bành Hiểu Xích, chua benh ung thu bằng phương pháp sinh học nghĩa là ứng dụng kỹ thuật sinh học hiện đại và những sản phẩm liên quan tạo ra một phương pháp điều trị và phòng ngừa ung thư mới.


Nhân viên y tế đang nuôi cấy tế báo miễn dịch.

Phương pháp này có thể bù đắp được những thiếu sót còn tồn tại trong cách điều trị truyền thống như “không triệt để, tác dụng phụ lớn”…, có thể tiêu diệt tế bào ung thư một cách hiệu quả, kéo dài thời gian sống cho bệnh nhân.

Hầu hết Bệnh nhân Ung thư đều muốn tìm hiểu chung một vấn đề: Phương pháp điều trị Miễn dịch sinh học có thể thay thế được các phương pháp điều trị truyền thống không? Điểm khác biệt lớn nhất của kỹ thuật điều trị miễn dịch sinh học trong ung thư chính là lợi dụng các te bao miễn dịch tự thân của cơ thể người bệnh, thông qua kỹ thuật phân tách và nhân bản tế bào trong phòng thí nghiệm rồi lại truyền trở lại vào cơ thể bệnh nhân, biến các tế bào này thành vũ khí tiêu diệt hiệu quả các tế bào ung thư chứ không phải dùng hóa chất để loại bỏ các tế bào ác như phương pháp truyền thống.

Chính vì vậy phương pháp này gần như không có tác dụng phụ, có thể phối hợp với các phương pháp chua benh ung thu có hiệu quả lâm sàng như phẫu thuật, hóa trị, xạ trị…, có thể phòng ngừa tái phát, di căn…. Đã có nhiều báo cáo về phương diện này và hiệu quả điều trị cao.

Chuyên gia Bành Hiểu Xích chia sẻ: “Hiện nay chúng tôi đề xướng mô hình điều trị ung thư tổng hợp. Bởi cho đến nay ba phương pháp truyền thống là Phẫu thuật, hóa trị và xạ trị vẫn là những phương pháp chủ yếu được áp dụng để điều trị các khối u ác tính, hiệu quả của các phương pháp này vẫn còn có những hạn chế, nói một cách đơn giản, hiệu quả điều trị của bất kỳ phương pháp nào cũng đều chưa phải là tuyệt đối, nên phối hợp thêm với phương pháp điều trị miễn dịch sinh học để đem lại hiệu quả cao hơn cho người bệnh”.

Do phẫu thuật, hóa trị và xạ trị đều không thể tiêu diệt hết các mầm bệnh trong cơ thể của bệnh nhân, đặc biệt là tình trạng di căn và tái phát, thêm vào đó việc hóa trị toàn thân đem lại tác dụng phụ vô cùng nghiêm trọng đến hệ thống miễn dịch của bệnh nhân ung thư trong khi điều trị miễn dịch lại gần như có thể khắc phục được vấn đề đó.


Trong quá trình phối hợp điều trị với các phương pháp hóa xạ trị, các triệu chứng xấu của bệnh nhân như tổn thương đường tiêu hóa cũng được giảm nhẹ hoặc mất dần đi, da dẻ đỡ xạm.

June 24, 2013

Thử nghiệm thành công thuốc điều trị ung thư gan

Cơ Quan Quản Lý Thực Phẩm và Dược Phẩm Hoa Kỳ FDA đã chấp thuận sử dụng viên Sorafenib Tosylate (Tên biệt dược Nexavar do Onyx Pharmaceuticals, Inc, và Bayer Pharmaceuticals Corp sản xuất) để điều trị cho bệnh nhân ung thư tế bào gan (HCC) quá chỉ định phẫu thuật.

Đa số các ung thư gan là ung thư tế bào gan (HCC), việc cắt bỏ hoàn toàn là rất khó và thời gian sống kéo dài thường chỉ từ 3 đến 6 tháng. Sorafenib là một chất ức chế multikinase nhằm vào serine/threonine và các thụ thể tyrosine kinases để giảm bớt sự tăng trưởng của khối u và sự tân tạo mạch máu (angiogenesis). Các nghiên cứu tiền lâm sàng đã chứng minh thuốc có tác dụng chống RAF kinase; thụ thể 2 và 3 VGEF(yếu tố tăng trưởng nội mạc mạch máu = vascular endothelial growth factor); các thụ thể của yếu tố tăng trưởng dẫn xuất từ tiểu cầu (platelet-derived growth factor receptor), beta polypeptide; KIT; và tyrosine kinase 3 liên quan đến FMS.

Các dữ liệu từ nghiên cứu đa trung tâm, mù đôi, pha 3, ngẫu nhiên về tác dụng của Sorafenib trên HCC (Sorafenib HCC Assessment Randomized Protocol trial) cho thấy việc điều trị bằng sorafenib tăng đáng kề thời gian sống sót trung bình (OS) và thời gian để u tiến triển (time to tumor progression = TTP) so với placebo theo thứ tự là (OS, 10.7 so với 7.9 tháng; độ nghi ngờ hazard ratio [HR], 0.69; P = .00058; và TTP, 5.5 so với 2.8 tháng; độ nghi ngờ HR, 0.58; P = .000007).

Tính đến thời điểm này, thử nghiệm đã chấm dứt do thuốc có hiệu quả. Theo thông cáo báo chí từ nhà sản xuất, sorafenib là thuốc duy nhất đã được chứng minh có cải thiện đáng kể thời gian sống cho người bệnh ung thư gan.

Theo thông tin từ công ty sản xuất, đã không có phản ứng phụ nguy hiểm nào được ghi nhận. Một số phản ứng thường gặp nhất khi sử dụng sorafenib là: tiêu chảy (55%), phản ứng trên da ở tay chân (21%), và sẩn ngứa (19%). Nhiễm độc da thường xuất hiện trong 6 tuần điều trị đầu tiên và thường ở mức 1 hoặc 2 tính theo độ nặng. Thiếu máu hoặc nhồi máu cơ tim xảy ra ở 2.9% dùng sorafenib so với 0.4% dùng placebo và cần ngưng thuốc tạm thời hoặc vĩnh viễn nếu xảy ra tình trạng này.

Mặc dù tăng huyết áp có thể xảy ra nhiều hơn trên bệnh nhân dùng sorafenib so với placebo (9.4% so với 4.3%), nhưng thường chỉ gặp tăng huyết áp vừa phải, xảy ra sớm sau khi dùng thuốc, và được kiểm soát tốt bằng các thuốc điều trị hạ áp thông thường. Cần theo dõi sát huyết áp trong 6 tuần điều trị đầu tiên và định kỳ trong thời gian kế tiếp.

Liều khuyến cáo của sorafenib là 400mg (2 viên) uống 2 lần mỗi ngày trước khi ăn. Nếu xảy ra phản ứng phụ (vd sẩn ngứa) cần tạm thời ngưng thuốc hoặc giảm liều xuống 400 mg/ngày hoặc 400mg uống cách ngày.

Dùng đồng thời với các thuốc thúc đẩy mạnh isoenzyme 3A4 của cytochrome P450 (vd, Thuốc St. John’s Wort, dexamethasone, phenytoin, carbamazepine, rifampin, rifabutin, và phenobarbital) có thể làm giảm nồng độ sorafenib trong huyết tương, do đó nên tránh phối hợp chung các thuốc này với nhau. Và do sorafenib có thể làm tăng nồng độ doxorubicin và docetaxel nên việc sử dụng chung với các thuốc này cần phải rất thận trọng.

Trước đây, Sorafenib đã được chấp thuận sử dụng cho ung thư gan quá chỉ định phẫu thuật bởi Uỷ Ban Châu Âu vào tháng 11-2007 và được Uỷ Ban Châu Âu và FDA chấp thuận sử dụng trong điều trị ung thư thận giai đoạn tiến triển.