December 4, 2012

Trẻ hóa ra mặt bằng tế bào gốc



Tế bào gốc là những tế bào chưa biệt hóa, nó có đặc tính là phát triển thành các dạng tế bào khác nhau của cơ thể. Như tế bào ở tủy xương có thể biến đổi thành tế bào chuyên biệt ở nhiều mô khác nhau như máu, não, cơ, thận, lách và gan…

Một số loại tế bào gốc

Bảo quản và sử dụng tế bào gốc:

Tuy nhiên việc chiết xuất, bảo quản và sử dụng các sản phẩm tế bào gốc đòi hỏi phải theo đúng nguyên tắc cũng như theo một quy trình và sử dụng những dụng cụ chiết xuất chuyên biệt. Các tế bào gốc phải được lấy chính xác không lấy các chất gian bào và phải xử lý bảo quản chúng không bị phá hủy bởi nhiệt độ…Lão hóa da là suy giảm các tế bào gốc của da. Công nghệ tế bào gốc trong thẩm mỹ là bổ sung các sản phẩm từ tế bào gốc để khắc phục và làm chậm lại quá trình lão hóa, làm cho da trở nên được trẻ hóa lại nhiều lần so với tuổi thực.

Các sản phẩm tế bào gốc được phân tách thông qua quy trình của công nghệ “Cryo stem cells”. Đây là quy trình trong đó các dòng điện sẽ làm thay đổi các điện tích của tế bào từ đó giúp các kênh tế bào tạo điều kiện cho các tế bào gốc được vào sâu trong da. Đặc biệt, lúc này nhiệt tại đầu điện di phải đạt nhiệt độ âm khoảng 15 đến 20 độ C để làm cho các sản phẩm tế bào gốc không bị tổn thương khi chúng được cấy vào da.

Ưu điểm của công nghệ:

Đưa được sản phẩm tế bào gốc vào tận địa chỉ cần đến là lớp trung bì, là nơi có các thành phần được coi là nguồn gốc cơ bản của nếp nhăn và lão hóa.Sau khi các sản phẩm tế bào gốc được cấy vào da chúng sẽ bù đắp những thiếu hụt các thành phần của da như collagen, acid hyarulonic, fibronectin. Đồng thời, chúng kích thích định hướng và truyền tính hiệu cho các tế bào gốc của da vốn đang lão hóa trở nên khỏe hơn để sản sinh ra các thành phần quan trọng để làm cho da giữ ẩm tốt hơn, căng mịn hơn, xóa nếp nhăn, làn da được thon gọn và trẻ hóa hoàn toàn và tận gốc.

Công nghệ “Cryo stem cells” là công nghệ kép, bao gồm sản phẩm trị liệu (sản phẩm tế bào gốc ) và phương pháp trị liệu (đưa vào được tận lớp trung bì) được phối hợp với nhau. Công nghệ mang lại hiệu quả hơn so với phương pháp dùng các sản phẩm bôi bề mặt có nguồn gốc từ tế bào gốc. Phạm vi ứng dụng của công nghệ tế bào gốc rất rộng như làm chậm lại quá trình lão hóa da, cải thiện được lão hóa độ I độ II, làm sáng da, da căng mịn, giữ ẩm cho làn da, cải thiện sẹo rỗ do mụn trứng cá, phối hợp điều trị nám da, rối loạn phân bố sắc tố, tăng sức đề kháng của da…

Xem thêm:

December 3, 2012

Làm gì khị bị đầy bụng khó tiêu



Nên làm gì khi bị chứng đầy bụng khó tiêu


Hầu hết mọi người đều đã trải qua chứng đầy bụng khó tiêu. Chứng đầy bụng, khó tiêu do nhiều nguyên nhân gây ra. Có thể do chế độ ăn uống lạm dụng quá nhiều tinh bột và chất béo, hoặc do ăn quá nhanh nên nhai không kỹ, hoặc ăn xong đi nằm ngay, hoặc do lạm dụng các chất kích thích như rượu, cà phê, thuốc lá...


đầy bụng khó tiêu
Rứa rất tốt cho phòng đầy bụng khó tiêu

Triệu chứng đầy bụng khó tiêu:


Đầy bụng khó tiêu cũng có thể xẩy ra do hoạt động của nhu động ruột dạ dày giảm sút, từ đó dạ dày đẩy thức ăn xuống ruột chậm, gây ứ trệ.
Ngoài chế độ sinh hoạt và ăn uống không hợp lý, đầy bụng khó tiêu còn biểu hiện của các bệnh như viêm loét dạ dày, tá tràng, trào ngược dạ dày thực quản, hoặc ung thư dạ dày.
Người mắc các bệnh rối loạn chuyển hoá như đái tháo đường, bệnh cường giáp, thiểu năng giáp trạng, người bị rối loạn tim mạch, mắc bệnh về gan... cũng có thể mắc chứng này.
Trong rất ít trường hợp, đầy bụng, khó tiêu còn biểu hiện của căn bệnh ung thư tiềm tàng.
Khi bị đầy bụng, khó tiêu, người bệnh có cảm giác bụng đầy hơi và ậm ạch, đôi khi sau bữa ăn cảm thấy buồn nôn, hoa mắt, chóng mặt, hoặc ợ chua, ợ nóng, nhiều trường hợp cảm thấy bụng căng chướng và đau âm ỉ...
Nếu đầy bụng khó tiêu do các bệnh lý gây ra thì phải điều trị dứt điểm bệnh. Nếu đầy bụng, khó tiêu do chế độ ăn uống, sinh hoạt thì phải điều chỉnh sao cho hợp lý. 

Một số trái cây giúp giảm đầy bụng khó tiêu:

Các thầy thuốc khuyên rằng, chế độ ăn uống giàu chất xơ (gồm các loại rau xanh, trái cây và ngũ cốc thô chưa qua tinh chế) và uống nhiều nước sẽ phòng tránh được đầy bụng.
Đặc biệt, các loại quả như táo, dứa và lê rất tốt cho việc phòng đầy bụng, khó tiêu. Trong táo chứa các chất như pectin, pro-topectin - là chất xơ tan nhanh, có tác dụng điều hoà hoạt động tiêu hoá của ruột.

Cần biết rằng, ăn quả táo tốt hơn là uống nước táo bởi lượng chất xơ trong quả táo rất cao.
Quả dứa có chứa chất bromelin, giúp thúc đẩy sự hấp thu protein trong thức ăn, vì thế có tác dụng kích thích tiêu hoá. Dứa cũng có nhiều chất xơ, trung bình 100g dứa chứa 1,8g chất xơ.
Lê là loại quả chứa nhiều chất xơ, giúp hấp thu nước trong cơ thể. Khi hấp thu đủ lượng nước, các chất xơ này phồng lên và thúc đẩy hoạt động tiêu hoá của ruột được nhanh hơn.
Ngoài ra, bạn nên sử dụng các vị thảo dược có tác dụng kích thích tiêu hoá như: trà hoa cúc, trà atiso, nước ngò (rau mùi), thìa là... và thay vì sử dụng các loại nước đóng hộp có ga nên sử dụng nước lọc tinh khiết hoặc nước cà rốt, nước cần tây, đặc biệt là nước chè xanh.
Bạn cũng có thể sử dụng gừng giúp tiêu trừ đầy bụng bởi gừng giúp kích thích sự bài tiết mật, tăng cường hoạt động của các enzyme tham gia vào quá trình tiêu hoá thức ăn.

Lưu ý, thư giãn cơ thể, hít thở sâu, đi bộ và vận động cơ thể nhẹ nhàng sau bữa ăn là một trong những biện pháp hữu hiệu phòng tránh đầy bụng, khó tiêu.


December 1, 2012

Tác hại của rượu đến bệnh liệt dương

Tác hại của rượu đến bệnh liệt dương


Tác hại của rượu rất nguy hiểm. Giai đoạn đầu của liệt dương thứ phát có liên quan đến uống rượu, bệnh có thể tệ hơn nếu bạn tiếp tục lạm dụng rượu. Các đấng mày râu, muốn duy trì phong độ và sự nam tính của mình, xin đừng đùa với rượu.



tác hại của rượu
Tác hại của rượu đến liêt dương


Rượu như một phù thủy có phép thuật, có thể biến một người đàn ông khỏe mạnh, rất “ổn” trở thành một người không còn một chút nam tính, thậm chí bạn còn trở thành một bệnh nhân của bệnh vô sinh...

Một nguyên nhân gây liệt dương:

Rất nhiều người cho rằng rượu gây hưng phấn tình dục, thực tế cũng có những trường hợp đúng như vậy. Tuy nhiên, điều này chỉ đúng trong giới hạn nhất định nào đó.

Tửu lượng của mỗi người là rất khác nhau, nếu bạn vượt ngưỡng thì lúc đó điều chắc chắn là rượu sẽ làm suy giảm khả năng tình dục của bạn.

Giai đoạn đầu của liệt dương thứ phát có liên quan đến uống rượu, bệnh có thể tệ hơn nếu bạn tiếp tục lạm dụng rượu.

Khoa học đã chỉ ra rằng rượu là một nguyên nhân gây liệt dương ở nam giới, do làm giảm mức testosteron - hormone sinh dục nam có tác dụng duy trì đòi hỏi tình dục và kích thích tuyến tiền liệt, túi tinh bài xuất tinh dịch.

Như vậy, có thể nói rượu làm giảm hoặc làm mất đòi hỏi tình dục, có thể gây vô sinh nam do không đủ về số lượng tinh dịch, số lượng tinh trùng và hình thái tinh trùng.

Thông thường, lượng tinh dịch từ 2 đến 5ml, có 20 triệu tinh trùng/ml, trên 60% số lượng tinh trùng ở dạng hoạt động mạnh và trên 60% tinh trùng có hình thái bình thường.

Nếu bạn quan hệ tình dục trong trạng thái say rượu có thể làm tổn thương về tình cảm hoặc có thể gây lãnh cảm cho bạn tình của mình vì những lý do thần kinh tâm thần của bạn. Trong lúc say rượu bạn có thể có những lời nhận xét, so sánh bột phát không suy nghĩ làm tổn thương hoặc xúc phạm bạn tình của mình.

Với người nghiện rượu mãn tính, cơ thể thiếu vitamin B1 gây ra bệnh não, làm giảm hoặc mất khả năng tình dục như - xuất tinh sớm - không đạt được cực khoái, không có khả năng cương cứng...

Và các tác hại của rượu khác

Rõ ràng, lạm dụng rượu không làm cho bạn mạnh mẽ hơn, đàn ông hơn mà còn làm cho bạn mắc phải hội chứng lệ thuộc rượu. Lệ thuộc rượu có nhiều biểu hiện khác nhau, phối hợp với nhau và thay đổi tùy thuộc vào mỗi người.

Biểu hiện có thể nhận thấy là sự biến đổi về nhân cách: khả năng kiềm chế, nóng giận, ghen tuông, dễ bị kích động, giận dữ đột ngột, hành vi gây gổ...

Các biểu hiện khác như ăn mặc cẩu thả; thờ ơ với việc ăn uống; thay đổi thời điểm uống từ buổi chiều sang buổi sáng, thay vì uống bia chuyển sang uống rượu mạnh; hứa hẹn cai rượu nhiều lần...

Nếu bạn là người nghiện rượu, cơ thể bạn sẽ lâm vào tình trạng rối loạn các chức năng. Bạn bị đau bụng, chuột rút, chân tay đờ đẫn, run, cảm giác kiến bò, mạch không đều, mặt đỏ, đi lại không vững, nói năng lẫn lộn, nhíu lưỡi, suy nghĩ chậm chạp, trí nhớ giảm sút... Lúc này, rượu là chất độc kích thích cơ thể, làm hạ đường huyết, tăng triglycerid trong máu tác động xấu đến tim, gan, mạch máu, gây tổn thương ở nhiều cơ quan khác nhau.

Người nghiện rượu ăn ít vì số calo do rượu cung cấp có thể bù đắp cho những nhu cầu năng lượng của cơ thể, nhưng số calo này không có nguồn gốc là protein, vitamin và muối khoáng vì thế người nghiện rượu thường bị suy dinh dưỡng.

Nếu bạn không muốn là một bệnh nhân gan hay bệnh nhân mắc các bệnh về các cơ quan tiêu hoá; bệnh ung thư; các bệnh tim mạch; bệnh thần kinh - tâm thần… thì hãy đừng là một người nghiện rượu nhé.

Xem thêm các chủ đề khác:

Tác hại của rượu đối với thai phụ

Tác hại của rượu đối với thai phụ



Các nhà khoa học Anh cho biết tác hại của rượu đối với thai phụ là rất nguy hiểm, họ đã có bằng chứng cho thấy dù thai phụ chỉ dùng một lượng nhỏ rượu trong thai kỳ cũng có thể làm ảnh hưởng đến trí thông minh của em bé sau này.




Thử nghiệm tác hại của rượu trên các bà mẹ đang mang thai:

Nhóm nghiên cứu của các nhà khoa học thuộc Đại học Oxford và Bristol (Anh) mới đây đã công bố kết quả nghiên cứu cho thấy, ngay cả khi các bà mẹ uống ít hơn 6 ly rượu mỗi tuần cũng có thể làm giảm chỉ số thông minh IQ của trẻ khi chúng được 8 tuổi. Đây là kết quả phân tích gene hơn 4000 bà mẹ và em bé. 
Những phụ nữ tham gia đã được yêu cầu cung cấp thông tin về mức tiêu thụ rượu của họ trong thời kỳ mang thai. Sau đó, chỉ số IQ của những đứa con họ đã được thử nghiệm vào thời điểm khi chúng được 8 tuổi.
Kết quả nghiên cứu phát hiện rằng, bốn biến thể gen chuyển hóa rượu ở trẻ có liên quan mạnh mẽ đến việc giảm chỉ số IQ. Tính trung bình, chỉ số IQ của những đứa trẻ giảm gần hai điểm khi chúng có mỗi bốn biến thể gen này.
Tiến sĩ Ron Gray, dẫn đầu nhóm nghiên cứu, hi vọng rằng kết quả mới công bố đủ sức chứng minh rằng chỉ cần uống một lượng nhỏ rượu trong thai kì cũng có thể ảnh hưởng đến tương lai của trẻ. Từ đó, các cơ quan y tế Anh sẽ có khuyến cáo hợp lý hơn đến các thai phụ. Còn các bà mẹ, sẽ có được lựa chọn đúng đắn để hạn chế đồ uống có cồn. 

Xem thêm:

Biện pháp hạn chế tác hại của rượu với sức khỏe


Một số biện pháp hạn chế tác hại của rượu với sức khỏe

Trong những cuộc vui, cuộc gặp gỡ, trong nhiều bữa tiệc, nhất là trong dịp đầu xuân, rượu được coi là một thức uống đưa đẩy, làm tăng “không khí” vui vẻ. Sau mỗi lần như thế, nhiều người không tránh khỏi sự choáng váng, ngà ngà của men rượu. Để có thể giảm bớt những tác hại của rượu đối với sức khỏe, không phải từ bỏ các cuộc vui ngày đầu năm, chúng tôi xin đưa ra một số điểm cần lưu ý trong việc sử dụng rượu mà mọi người cần biết ở dưới đây.
tác hại của rượu
Người tăng huyết áp dễ bị chảy máu não nếu uống nhiều rượu.

Không uống quá nhiều rượu:

Uống rượu quá nhiều, độ cồn trong rượu sẽ làm cho biểu bì não ở trong trạng thái tê liệt hoặc quá phấn khích, lúc đó sẽ mất đi kiểm soát ý thức. Một số người có bệnh lý mạch máu não nếu uống nhiều rượu dễ dẫn tới các hậu quả nghiêm trọng; ví dụ người mắc bệnh xơ cứng động mạch dễ bị thiếu máu não, người tăng huyết áp dễ bị chảy máu não. Nói chung, để đảm bảo sức khỏe nên uống rượu bia theo sức khỏe của mình, nhưng với rượu trắng thì không nên vượt quá 50ml, uống bia thì không quá 1 chai.

Không uống rượu khi đói bụng:

Khi dạ dày trống mà uống rượu, nhất là rượu mạnh sẽ gây tổn thương cho dạ dày, thực quản; ngoài ra còn làm tăng khả năng hấp thu cồn vào trong máu. Một số công trình thực nghiệm đã chứng minh, nếu uống rượu khi dạ dày trống chỉ cần 30 phút, chất cồn sẽ gây hại cho cơ thể ở mức độ cao nhất. Vì vậy trước khi uống rượu chúng ta nên ăn một chút tinh bột và uống một chút nước.

Không nên uống rượu lạnh:

Đơn giản là vì trong rượu bao giờ cũng có một lượng andehit, nhất là các loại rượu chưng cất thủ công thì hàm lượng andehit càng cao. Sự nguy hại của andehit đối với cơ thể nguy hiểm hơn cả cồn, nhưng độ sôi của andehit thấp, chỉ có khoảng 20oC. Vì vậy, chỉ cần làm nóng rượu thì có thể làm cho lượng lớn andehit bốc hơi, như thế sẽ giảm bớt nguy hại cho cơ thể.

Không nên uống nhiều loại rượu cùng một lúc:

Nói chung, các loại rượu khác nhau có nguồn gốc và thành phần tạp chất khác nhau, đặc biệt nếu uống chung cả hai loại rượu lên men (bia, rượu vang…) với rượu chưng cất (rượu trắng) sẽ gây ra đau đầu, buồn nôn và dễ say do rượu lên men hàm lượng cồn thấp nhưng tạp chất cao; ngược lại rượu chưng cất nồng độ cồn lại lớn, hai loại này phản ứng khác nhau trong cơ thể.

Không uống rượu với nước có ga:

Khi uống rượu chung với nước có ga sẽ làm cho cồn nhanh chóng lan tỏa khắp toàn thân, đồng thời sản sinh ra lượng lớn CO2 gây nguy hại cho gan, thận và dạ dày, đường ruột. Nó kích thích niêm mạc dạ dày, giảm bớt vị toan bài tiết ảnh hưởng tiêu hóa, đồng thời người mắc bệnh dạ dày đường ruột nếu sau khi uống rượu uống nước có ga thì sẽ làm cho ruột và dạ dày chảy máu. Nước có ga cũng khiến cồn nhanh chóng thẩm thấu vào hệ thần kinh trung ương, gây tăng huyết áp nhanh.

Không vừa uống rượu vừa hút thuốc:

Khi uống rượu mạch máu giãn nở, đẩy nhanh tuần hoàn máu trong cơ thể; còn chất nicotin trong thuốc lá lại dễ hòa tan trong nước. Vì vậy, khi uống rượu mà hút thuốc sẽ đẩy nhanh tốc độ hấp thụ chất nicotin trong cơ thể. Ngoài ra, do tác dụng độc tố của cồn có thể ảnh hưởng đến chức năng giải độc của gan đối với chất nicotin.

Không tắm sau khi uống rượu:

Sau khi uống rượu đi tắm sẽ tăng nhanh tiêu hao chất đường tích trữ trong cơ thể, làm cho đường huyết hạ thấp, thân nhiệt giảm nhanh. Ngoài ra cũng cần chú ý, sau khi uống rượu mà gặp lạnh sẽ dễ bị cảm lạnh, trúng gió, tê liệt và có thể gặp các tai biến khác.

Không uống thuốc sau khi uống rượu:

Sau khi uống rượu, cồn bắt đầu gây tác dụng hưng phấn ngắn đối với hệ thống thần kinh, sau đó chuyển thành ức chế. Nếu trong lúc này uống thuốc an thần, thuốc ngủ hoặc các loại thuốc chống dị ứng có tác dụng an thần và cả thuốc cảm hàm chứa các thành phần trên, sẽ làm cho huyết áp hạ thấp, tim đập chậm, hô hấp khó, thậm chí gây tử vong. Ngoài ra, sau khi uống rượu, mà uống các thuốc như thuốc giảm đau, thuốc chống viêm… đều dễ làm cho dạ dày xuất huyết, thậm chí thủng dạ dày. Rượu còn gây ảnh hưởng đến tác dụng dược lý của nhiều loại thuốc khác, làm tăng nguy cơ xuất hiện tác dụng phụ của thuốc, gây nguy hại cho cơ thể.

 Không uống rượu khi mang thai:

Uống rượu sẽ làm cho não và tim của thai nhi bị độc hại do cồn, làm cho thai nhi phát triển trì trệ, tỉ lệ tử vong tăng cao, sau khi ra đời cũng có ảnh hưởng đến trí tuệ và thể lực.

Xem thêm:


November 28, 2012

Một số bệnh truyền nhiễm dễ mắc phải cần quan tâm

Một số bệnh truyền nhiễm rất dễ mắc phải cần quan tâm

Tác nhân của các bệnh truyền nhiễm là do vi khuẩn hoặc virus, trong đó tác nhân do virus ngày càng tăng, độc lực càng cao và diễn biến phức tạp hơn trước đây (nếu như bệnh đã có từ trước, nay bộc phát). Một số bệnh truyền nhiễm điển hình đó là: Tay - chân - miệng, sốt xuất huyết, tả, cúm A H5N1, cúm A H1N1.

Vi trùng gây bệnh truyền nhiễm
Vi trùng gây bệnh truyền nhiễm

Bệnh tay - chân - miệng (Hand-Foot-Mouth Disease HFMD):

Là một bệnh do nhiễm virus đường ruột (enterovirus), thường gặp nhất là Coxsackievirus A16 và Enterovirus 71 (EV 71). Bệnh tập trung chủ yếu là trẻ dưới 5 tuổi, nhất là trẻ 1-2 tuổi. Bệnh cũng có thể gặp ở người trưởng thành. Khoảng 75% người lớn có virus tay - chân - miệng nhưng không có biểu hiện bệnh lý gọi là người lành mang trùng (carrier). Đây là đối tượng rất khó quản lý nhưng dễ phát tán mầm bệnh. Năm 2011, Việt Nam đã trở thành quốc gia có tỷ lệ người mắc bệnh T-C-M cao thứ 2 thế giới, sau Trung Quốc. Tại khu vực phía Nam, số mắc bệnh T-C-M chiếm 65,5% và số chết chiếm 89,2% so với cả nước. Thành phố Hồ Chí Minh có số mắc cao nhất nước, Tiền Giang có số mắc đứng hàng thứ 7 so với cả nước. Tính đến ngày 13/11/2011, số ca mắc bệnh T-C-M trên địa bàn tỉnh ta là 2.948, tăng 6,82 lần so với cùng kỳ năm 2010, trong đó tử vong 5 trường hợp. Bệnh T-C-M chưa có vaccine phòng ngừa và chưa có thuốc điều trị đặc hiệu, nhưng lại lây lan nhanh và diễn biến phức tạp, nhanh chóng, dễ gây ra tử vong. Biện pháp phòng ngừa chính là giữ vệ sinh tốt và hạn chế tiếp xúc với nguồn bệnh. Biện pháp phòng ngừa đơn giản, dễ thực hiện nhất nhưng hiệu quả nhất là rửa tay sạch bằng xà phòng thường xuyên trước khi ăn, sau khi đi vệ sinh, thay tả, chăm sóc người bệnh hoặc sau khi tiếp xúc với các chất tiết của người bệnh.

Bệnh Sốt xuất huyết (Dengue Heamorrhagic Fever):

Là một loại bệnh lý truyền nhiễm do virus Dengue (D1, D2, D3, D4) gây ra. Tại Việt Nam, sốt xuất huyết có số mắc đứng hàng thứ năm trong bệnh truyền nhiễm, nhưng có số tử vong đứng đầu trong 26 bệnh được ghi nhận từ năm 2001 đến 2007. Theo ghi nhận, SXH có chu kỳ bùng phát dịch lớn mỗi 10 năm, trong đó 85% các trường hợp SXH xảy ra tại khu vực phía Nam. Trong những năm gần đây, SXH có khuynh hướng gia tăng tại các tỉnh phát triển công nghiệp (TP. Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa Vũng Tàu...). Tại Tiền Giang, tính đến ngày 20/11/2011, tổng số ca mắc SXH là 2.933 (giảm 47,29% so với cùng kỳ năm trước) và đã tử vong 01 trường hợp. SXH hiện cũng chưa có thuốc điều trị đặc hiệu và chưa có vaccine phòng ngừa. Biện pháp phòng ngừa là "không có muỗi, không có lăng quăng thì không có sốt xuất huyết".

Bệnh tả (Cholerae):

Là một bệnh nhiễm trùng đường ruột, do phẩy trùng Vibrio cholerae gây ra. Độc tố của vi trùng này gây tiêu chảy nặng kèm theo mất nước. Các triệu chứng điển hình là nôn mửa nhiều và tiêu chảy liên tục rất nhiều lần với khối lượng lớn, có khi hàng chục lít một ngày với phân toàn nước, có màu trắng lờ đục như nước vo gạo; bệnh nhân không sốt (có khi lạnh cả người) và ít khi đau bụng. Bệnh nhân mất nước và chất điện giải nhanh chóng, dễ bị trụy tim mạch, gây shock mất nước và có thể tử vong nếu không được bù nước và điện giải kịp thời.

Tại khu vực phía Nam, bệnh tả giảm đi rất rõ rệt kể từ năm 1995. Tỉnh Tiền Giang đã 3 ca bệnh tả vào năm 2010 sau 13 năm liên tục không có ca bệnh tả. Bệnh tả đã có thuốc điều trị và có vaccine phòng ngừa. Biện pháp phòng ngừa bệnh tả là giữ gìn tốt vệ sinh cá nhân, vệ sinh môi trường, bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm, sử dụng nước sạch và xử trí ngay những trường hợp mắc hoặc nghi ngờ bệnh tả để tránh lây lan.

Cúm A H5N1 còn gọi là cúm chim hoang dã hay gia cầm (Bird Flu, Avian Influenza):

Là một dạng bệnh đường hô hấp do virus cúm A phân nhóm H5N1 gây ra, với các triệu chứng thường gặp: sốt, nhức đầu, đau cơ, mệt mỏi, sổ mũi, đau họng, ho khan, sau đó nhanh chóng dẫn đến viêm phổi nặng với ho có đàm, đau ngực, khó thở tím tái, nếu không điều trị kịp thời sẽ suy hô hấp, shock nhiễm trùng, suy đa phủ tạng, hôn mê rồi tử vong. Nguồn bệnh là gia cầm, thủy cầm bị bệnh thải virus qua chất tiết và phân.

Cúm A H5N1 phát hiện đầu tiên tại Việt Nam vào năm 2003, từ đó đến nay xảy ra rải rác tại khắp các tỉnh thành trong cả nước. Tại Tiền Giang đã ghi nhận 2 ca mắc và tử vong cả 2 do cúm A H5N1 (tại Cai Lậy vào năm 2005 và tại Cái Bè vào năm 2010), tỷ lệ tử vong 100%. Biện pháp phòng ngừa cúm A H5N1 là giữ vệ sinh cá nhân, vệ sinh ăn uống (ăn chín, uống chín), không sử dụng thịt hoặc các sản phẩm từ gia cầm, thủy cầm bị bệnh (nhất là tiết canh) và tránh tiếp xúc với nguồn bệnh.

Cúm A H1N1:
Cũng có những triệu chứng của cúm thông thường là sốt, nhức đầu, đau cơ, mệt mỏi, sổ mũi, đau họng, ho khan... Bệnh cúm A H1N1 thường diễn biến không nặng và không cần điều trị đặc biệt, trừ những trường hợp xảy ra trên những đối tượng có nguy cơ cao như: phụ nữ mang thai, trẻ em, người già, người mắc các bệnh mãn tính như phổi mãn tính, bệnh tim mạch, tiểu đường, hen phế quản, lao phổi, người nhiễm HIV/AIDS, béo phì, suy dinh dưỡng... là những nhóm dễ bị biến chứng nguy hiểm, có khả năng tử vong. Bệnh lây truyền trực tiếp từ người sang người thông qua giọt bắn từ ho khạc, hắt hơi, nước mũi hoặc từ các chất tiết dính vào bề mặt các vật dụng.

Năm 2009, tại Tiền Giang có 204 ca mắc bệnh cúm A H1N1 nhưng không có tử vong. Năm 2011, tỉnh có 3 ca mắc bệnh cúm A H1N1, trong đó có 1 tử vong do có kèm theo bệnh cảnh cao huyết áp + thiếu máu cơ tim/ hen phế quản.

Để chủ động ngăn ngừa dịch cúm A H1N1, người bệnh nên đeo khẩu trang hoặc che miệng khi ho, không khạc nhổ bừa bãi để hạn chế lây lan cho người thân và cộng đồng. Người chưa mắc bệnh cần tránh tiếp xúc với người bệnh, đeo khẩu trang khi đến nơi đông người, giữ vệ sinh cá nhân thông qua việc thường xuyên rửa tay bằng xà phòng, súc miệng hàng ngày bằng nước sát khuẩn, ăn thức ăn đủ chất dinh dưỡng để nâng cao thể trạng.

Xem thêm:


Các món ăn giảm bớt tác hại của rượu


Các món ăn giảm bớt tác hại của rượu


Tết đến, chúng ta không tránh khỏi việc uống rượu, tuy nhiên nếu uống rượu kết hợp với những món ăn sau đây sẽ giúp chúng ta giảm bớt được tác hại của rượu đối với cơ thể.

Món ăn giả bớt tác hại của rượu
Các món ăn hàm chứa nhiều protit keo
Ví dụ như chân giò, móng giò lợn, thịt lợn nấu đông.
Các thực phẩm có hàm lượng protit keo cao sẽ hình thành một lớp màng bảo vệ trong dạ dày, đường ruột, giúp ích rất lớn trong việc làm chậm tốc độ hấp thu của rượu, còn có thể bảo vệ gan. Đồng thời, những thực phẩm này cũng chứa hàm lượng chất béo nhất định, rượu rất khó hòa tan trong chất béo đó, vì vậy sẽ làm chậm tốc độ hấp thu rượu đối với cơ thể..

Rau quả hàm chứa chất xơ cao
Ví dụ như rong biển, mộc nhĩ, cải thảo …
Thực phẩm hàm chứa chất xơ cao có thể làm chậm hoặc giảm bớt sự hấp thu của rượu, có tác dụng bảo vệ chức năng gan. Rong biển trộn, hành tây trộn với mộc nhĩ, cả hai món ăn này vừa rất ngon miệng vừa bảo vệ gan.

Các loại ngũ cốc thô, khoai tây
Những thực phẩm này rất giàu carbohydrates, carbohydrates và rượu kết hợp, sẽ làm chậm sự hấp thu của dạ dày với rượu. Ngoài ra, hàm lượng các loại vitamin B trong thực phẩm này cũng rất phong phú, có thể bù đắp cho việc mất vitamin B1 khi uống quá nhiều rượu vào. Vì vậy, khoai tây, khoai lang, ngũ cốc và rau quả là lựa chọn rất tốt khi uống rượu.

Các món ăn giàu protein
Ví dụ như thịt, trứng và các chế phẩm từ đậu...
Những thực phẩm này chứa đại lượng choline và methionine, có tác dụng bảo vệ gan. Vì vậy, ăn những thực phẩm này tương đương như các loại thuốc bảo vệ gan. Uống càng nhiều rượu, nồng độ cồn càng cao, càng cần ăn nhiều thực phẩm giàu protein, ví dụ như đậu phụ, lạc luộc vv.

Xem thêm:

9 mẹo nhỏ giúp giảm tác hại của rượu


9 mẹo nhỏ giúp giảm tac hai cua ruou


Dù biết rượu có ảnh hưởng không tốt cho sức khỏe nhưng bạn không có lý do để từ chối rượu trong các bữa tiệc tiếp khách...Những mẹo nhỏ dưới đây sẽ giúp hạn chế tới mức tối đa ảnh hưởng của rượu tới sức khỏe cơ thể.



tác hại của rượu
Tác hại của rượu
1. Không tắm ngay sau khi uống rượu

Việc tắm ngay sau khi uống rượu sẽ làm tiêu hao một lượng lớn đường glucose có trong cơ thể, từ đó làm giảm lượng đường trong máu, dẫn tới hạ đường huyết đột ngột, giảm thân nhiệt.

Thành phần chất cồn trong rượu sẽ làm rối loạn hoạt động của gan.

Tắm ngay sau khi uống rượu nhiều còn có thể gây đột quỵ hoặc trụy tim mạch, dẫn tới tử vong.

2. Ăn nhiều rau xanh và hoa quả

Rau xanh, hoa quả, đậu tương và các chế phẩm từ đậu tương giàu vitamin và chất chống oxi hóa, giúp bảo vệ gan và hạn chế tác hại của cồn trong rượu tới hoạt động của gan.

Vì vậy, một chút rau xanh, hoa quả hoặc sữa đậu nành sau bữa tiệc sẽ giúp bảo vệ sức khỏe của lá gan và cơ thể.

3. Không uống rượu thuốc trong bữa tối

Một số loại thực vật và thảo dược trong thành phần của rượu thuốc sẽ kết hợp với thức ăn có nguồn gốc động vật và sản sinh ra các phản ứng hóa học có hại cho dạ dày và hệ tiêu hóa, đôi khi có thể gây cảm giác đầy bụng, khó tiêu và ói mửa.

Thức ăn càng để lâu thì tac hai cua ruou với cơ thể càng lớn. Vì vậy, không nên dùng rượu thuốc vào buổi tối.

4. Không dùng trà ngay sau khi uống rượu

Nước ép trái cây như nước cam ép, táo ép chứa nhiều thành phần axit amin và hàm lượng đường fructose, có tác dụng trung hòa lượng cồn của rượu, từ đó có tác dụng giải rượu nhanh.

Ngược lại, thành phần tanin trong trà lại càng kích thích nhanh hơn quá trình thẩm thấu của cồn vào dạ dày và gây hại cho dạ dày nhiều hơn. 

5. Tuyệt đối không uống rượu khi đói

Khi bụng đói, lượng axit trong dạ dày tăng lên, khi kết hợp với chất cồn trong rượu sẽ làm bạn dễ say hơn, kèm theo đó là cảm giác nôn nao, khó chịu.

Vì vậy, vừa ăn, vừa uống hay ăn một chút lót dạ trước khi uống rượu là cách tốt nhất để đẩy lùi cơn say và giảm bớt tac hai cua ruou với sức khỏe cơ thể. Khi đã có thức ăn trong dạ dày. Các axit dịch vị còn " mải mê" tiêu hóa thức ăn mà tạm thời "quên đi" việc xử lý chất cồn trong rượu, từ đó đẩy lùi cơn say.

6. Không dùng nhiều loại rượu cùng lúc

Rượu thuốc, rượu vang, rượu trắng... mỗi loại có thành phần và liều lượng khác nhau, khi uống lẫn lộn, sẽ dễ làm bạn say hơn.

7. Không uống nhiều 1 lúc

Uống rượu từ từ cũng là cách giảm cơn say của bạn vì 1 lượng cồn lớn bất ngờ "đổ bộ" vào cơ thể trong thời gian ngắn có thể gây tác động nhanh, mạnh tới não bộ, có thể dẫn tới choáng và nhanh say hơn.

8. "Kết thân" với nước khi uống rượu

Khi uống rượu, bạn đừng quên chuẩn bị cho mình một vài cốc nước đun sôi để nguội. Bạn nên uống nước ngay sau khi uống rượu. Dù lượng nước nhiều hay ít thì việc này cũng làm bạn phải tích cực "ghé thăm" nhà vệ sinh nhiều hơn. Cách này cũng giúp đẩy nhanh quá trình đào thải chất cồn ra khỏi cơ thể qua đường tiểu tiện, làm bạn không bị say khi uống rượu.

9. "Làm ấm" rượu trước khi uống

Đối với tất cả các loại rượu, trước khi uống, bạn hãy "làm ấm" chúng bằng cách ngâm vào nước nóng. Dưới tác động của nhiệt độ, một số chất có hại trong rượu sẽ bay hơi, từ đó giảm được những tác động xấu của rượu tới sức khỏe cơ thể.

Xem thêm:

November 27, 2012

Vitamin và bệnh truyền nhiễm



Vitamin giúp cải thiện kết quả điều trị các benh truyen nhiem

Bổ sung vào chế độ ăn uống các vitamin A, vitamin nhóm B, C, E sẽ giúp cải thiện kết quả điều trị các benh truyen nhiem, trong đó có bệnh lao. Đó là kết quả nghiên cứu mới được các nhà khoa học Mỹ công bố gần đây.

Theo bác sĩ Eduardo Villamor, ĐH Y tế cộng đồng Harvard (Boston, Mỹ), chất dinh dưỡng đóng vai trò quan trọng trong việc dự báo những kết quả điều trị cho người mắc benh truyen nhiem.

Qua theo dõi 887 bệnh nhân ở khu vực Dar es Salaam (Tanzania), Villamor và các cộng sự cho rằng, việc bổ sung đầy đủ dinh dưỡng cũng như các loại vitamin có thể làm giảm các tai biến và tử vong trong quá trình điều trị. Hơn thế, các vi chất này còn giúp giảm phần nào nguy cơ thất bại trong điều trị; đồng thời giảm tới 45% nguy cơ tái phát sau khi được điều trị khỏi.


Mặc dù việc bổ sung vi chất dinh dưỡng không làm thay đổi được tỉ lệ tử vong hay tác động tới quá trình điều trị bệnh nhân HIV nhưng rõ ràng, hệ miễn dịch của những bệnh nhân được bổ sung vi chất được nâng lên rất nhiều, giảm được phần nào sự xâm nhập của các vi rút gây benh truyen nhiem.

Các nhà khoa học cũng nhấn mạnh rằng: “Những kết quả thu được từ nghiên cứu đơn lẻ này chưa đủ để đưa ra những khuyến nghị đối với bệnh nhân. Tuy nhiên, với liệu pháp can thiệp tương đối rẻ tiền này, hứa hẹn sẽ mang tới một cách điều trị bổ trợ tiềm năng mới cho người mắc benh truyen nhiem”.


Xem thêm:
tac hai cua ruou | day bung kho tieu | dieu tri xo gan | te bao goc la gi | ghep te bao goc | ung thu gan la gi | benh xo gan

Đột biến gen khiến người dễ mắc bệnh truyền nhiễm

Đột biến gen khiến người dễ mắc bệnh truyền nhiễm

Báo cáo của Đại học Oxford, Anh hôm 20/5 cho biết, trường này đã hợp tác với các cơ quan nghiên cứu của Singapore phát hiện một loại gen có tên gọi CISH gây ảnh hưởng quan trọng đối với hệ miễn dịch cơ thể người. 

Sự đột biến của gen này sẽ làm cho con người dễ mắc các bệnh truyền nhiễm như bệnh lao và sốt rét. 

Một người có dễ mắc bệnh truyền nhiễm hay không chủ yếu liên quan đến các yếu tố môi trường của chính bản thân người đó như thể chất kém, thói quen vệ sinh không lành mạnh. 

Tuy nhiên, yếu tố môi trường không phải là nguyên nhân duy nhất khiến mọi người dễ mắc bệnh truyền nhiễm. Nghiên cứu cho thấy, yếu tố di truyền cũng đóng một vai trò hết sức quan trọng. 

Báo cáo cho biết, các nhà khoa học đã phải mất 5 năm phân tích hơn 8.000 gen của các đối tượng đến từ Kenya, Việt Nam và Hongkong mới xác định được mối quan hệ mật thiết giữa gen CISH với rất nhiều bệnh truyền nhiễm. 

Khi gen CISH đột biến sẽ khiến cho những người mang gen này dễ bị mắc các bệnh truyền nhiễm như bệnh lao, sốt rét. 

Cuối cùng các nhà khoa học đã xác nhận được năm nhóm gen CISH khác nhau bị đột biến, trong đó có một nhóm gen đột biến (-292) khiến cho người mang gen CISH đột biến nguy cơ mắc bệnh truyền nhiễm gia tăng 18%. 

Các nhà khoa học phát hiện, trong tế bào máu của người mang gen đột biến (-292), mức độ protein CISH thấp hơn nhiều so với những người không mang loại gen đột biến này. 

Điều này cho thấy, gen CISH có ảnh hưởng di truyền rất lớn đối với phản ứng miễn dịch của cơ thể người. Protein CISH có tác dụng ức chế sự truyền tín hiệu giữa các tế bào hệ miễn dịch. 

Theo các nhà khoa học, trước mắt họ chưa hiểu rõ tại sao sự hạ thấp mức độ gen CISH lại dễ dàng gây mắc các bệnh truyền nhiễm

Tuy nhiên, một điều rõ ràng là gen CISH có vai trò then chốt trong hệ miễn dịch, điều này cần phải tiếp tục nghiên cứu. 

Các nhà khoa học hy vọng phát hiện mới này có thể khuyến khích nhiều nghiên cứu lâm sàng để tìm ra phương pháp mới điều trị bệnh truyền nhiễm có hiệu quả hơn và điều chế vắcxin dự điều phòng căn bệnh này.


Xem thêm:
ghép tế bào gốc | bệnh truyền nhiễm | tác hại của rượu | đầy bụng khó tiêu | ung thư gan là gì | benh xo gan | điều trị xơ gan | chữa bệnh xơ gan

Ánh sáng nhân tạo dễ gây mắc bệnh truyền nhiễm



Ánh sáng nhân tạo dễ gây mắc benh truyen nhiem

Một nghiên cứu mới nhất của các nhà khoa học Brazil cho thấy ánh sáng nhân tạo có thể làm biến đổi phương thức hành vi của con người và côn trùng qua đó làm gia tăng tỷ lệ phát benh truyen nhiem do côn trùng.

bệnh truyền nhiễm
Ánh sáng nhân tạo dễ gây mắc bệnh truyền nhiễm


Các nhà khoa học đã tiến hành thí nghiệm đối với bọ chét cát và côn trùng T.cruzi là những loài rất dễ bị thu hút bởi ánh sáng nhân tạo.

Hai loại côn trùng này thường truyền vi khuẩn gây bệnh vào thức ăn qua đó làm gia tăng xác suất mắc benh truyen nhiem ở con người.

Mặt khác, khi có ánh sáng thời gian hoạt động bên ngoài của con người tăng lên, điều đó đã làm gia tăng cơ hội tiếp xúc với côn trùng.

Mặc dù ánh sáng nhân tạo mang lại cho con người nhiều hữu ích không thể đo đếm được như giúp cho hoạt động của con người vào ban đêm thuận tiện hơn, tuy nhiên nó cũng làm gia tăng xác suất tiếp xúc giữa con người với côn trùng qua đó gây ra các loại benh truyen nhiem.

Kết quả nghiên cứu có ý nghĩa quan trọng cung cấp những tham khảo cho các nghiên cứu trong tương lai liên quan đến bệnh truyền nhiễm.


Xem thêm:

Tế bào gốc là gì?




Tế bào gốc là gì?


Cơ thể con người có rất nhiều loại tế bào cần thiết cho sức khoẻ hàng ngày. Những tế bào này giúp cho cơ thể hoạt động bình thường, bao gồm nhịp đập của tim, suy nghĩ của não, thận làm sạch máu, và sự thay đổi tế bào mới cho da…Chức năng đặc biệt cuả tế bào gốc là tạo ra toàn bộ những loại tế bào khác trong cơ thể. Tế bào gốc là nhà cung cấp của tế bào mới. Khi tế bào gốc phân ra, nó có thể làm ra thêm tế bào gốc mới, hoặc làm ra những loại tế bào khác. Ví dụ, tế bào gốc của da có thể làm ra thêm những tế bào gốc mới của da, hoặc tạo ra những tế bào với những chức năng đặc biệt, như là giúp cho sắc tố cuả da.
Tại sao tế bào gốc quan trọng cho sức khỏe?
Khi chúng ta bị thương hoặc bị bệnh, tế bào trong cơ thể cuả chúng ta cũng sẽ bị thương hoặc chết. Khi như vậy, tế bào gốc bắt đầu hoạt động. Công việc của tế bào gốc gồm sửa chữa những tế bào bị thương và thay tế bào mới vào chỗ những tế bào chết. Đây là cách mà tế bào gốc giữ cơ thể khỏe mạnh và chống thoái hoá không bình thường.
Tế bào gốc có những loại nào?
Tế bào gốc có rất nhiều loại khác nhau. Những nhà khoa học nghĩ rằng mỗi bộ phận trong cơ thể có một loại tế bào gốc riêng. Ví dụ, máu được làm từ tế bào gốc của máu (tế bào tạo máu). Tuy nhiên, tế bào gốc đã suất hiện vào những giai đoạn phát triển đầu tiên của con người, và khi những nhà khoa học cấy tạo ra tế bào này, tế bào được mang tên “phôi tế bào gốc”. Nguyên nhân mà những nhà khoa học phấn khởi về phôi tế bào gốc là vì bẩm sinh, phôi tế bào gốc tạo ra toàn bộ những cơ quan của cơ thể con người trong lúc phát triển. Không giống như tế bào gốc của người lớn, nhà khoa học có thể khiến các phôi tế bào gốc để trở thành gần như tất cả các loại tế bào khác trong cơ thể con người. Ví dụ, trong lúc tế bào tạo máu chỉ có thể làm ra máu, phôi tế bào gốc có thể làm ra máu, xương, da, não, vv…Ngoài ra, phôi tế bào gốc đã được lập trình chức năng tạo ra mô và cơ quan con người, còn tế bào gốc cuả người lớn không có. Như vậy có nghĩa là phôi tế bào gốc có nhiều khả năng tự nhiên để sửa chữa những cơ quan bị bệnh. Phôi tế bào gốc được làm từ những phôi thai dư từ chương trình điều trị khả năng sinh sản, và những phôi tai này chỉ mới có vài ngày tuổi và được cấy tạo trên dĩa trong phòng thí nghiệm. Nếu không dùng tới, những phôi tai này cũng sẽ bị vứt đi.
Xem thêm: